Cuộc tranh cãi vẫn đương là, hoặc tất cả do sự dạy dỗ/giáo dục con cái, hoặc tất cả do gen. Nhưng biết đâu còn có lý do nào khác nữa?
Với đôi mắt xanh trong, tóc gợn sóng, nét mặt tươi tắn, bọn trẻ trông như vừa mới bước ra từ cuốn catalog của Pottery Barn. Chúng là cặp song sinh 7 tuổi. Tôi gọi chúng là Thomas và Patrick. Ba mẹ bọn trẻ cho phép tôi được gặp chúng, miễn là tôi không sử dụng tên thật của các em.
5 giây lướt qua, chẳng thể nghi ngờ gì về sự giống nhau của hai đứa trẻ -đến nỗi chúng cũng không thể chỉ ra được ai là ai trong những tấm hình. 5 phút trôi qua, sự khác nhau về chiều sâu của hai đứa trẻ mới dần hiện ra.
Pattrick dễ gần, chín chắn và chăm chú. Cậu hay lặp lại tên mình khi nói chuyện với tôi. Thomas tự nhiên, thoải mái và hơi lo ra. Mới có mấy phút sau khi gặp tôi bên ngoài một tiệm cà phê, cậu đã thúc mạnh vào tôi và reo lên “Chiếc punch bug (1) xám kìa!” và rồi dõi theo chiếc Volkswagen Beetle đang kiếm khách đi ngang qua chúng tôi. Chúng cõng nhau đi quanh như những người anh em khác. Nhưng ở Pattrick ít có sự mạnh mẽ hơn và giọng cậu cao hơn. Thomas cõng người anh em của mình, đôi cánh tay cậu vòng lại trông như một lực sĩ tí hon. Chúng là hai cậu bé 7 tuổi với những khác biệt tinh tế.
Hồi cặp sinh đôi được 2 tuổi, Patrick tìm thấy giày của mẹ. Cậu thích mang chúng. Thomas có lần thử mang giày bố nhưng nó không hiểu gì.
Khi cặp sinh đôi được 3 tuổi, Thomas buột miệng nói rằng súng đồ chơi là món đồ yêu thích của cậu. Còn Patrick thì nói, món đồ chơi cậu thích là mấy con búp bê Barbie mà cậu tìm thấy ở vườn trẻ.
Khi cặp sinh đôi được 5 tuổi, Thomas “loan báo” rằng cậu sẽ là gã Monster trong lễ Halloween. Pattrick nói cậu sẽ là công chúa. Thomas bảo Patrick không làm vậy được đâu, vì mấy đứa khác sẽ cười vào mặt nó. Patrick dường như lúng túng, nó không hiểu. Thế Patrick làm Batman vậy –cậu nói.
Người mẹ thông minh, nồng hậu và cởi mở (open-minded) của hai cậu nhóc thấy chính mình cũng đang mâu thuẫn. Cô muốn Patrick –đứa con trai mà những người bạn chơi cùng nó toàn là nữ, chẳng bao giờ là nam –được là chính mình, nhưng cô cũng lo cho cách xử sự nữ tính của con sẽ đẩy cậu vào tình huống bị nhạo báng và tổn thương. Cô quyết định cho phép con mình được tự do thể hiện ở nhà và đặt ra một số hạn định cho con nơi công cộng.
Mọi chuyện vẫn tiếp diễn cho đến năm ngoái, khi một giáo viên ở trường đã gọi điện bảo rằng Patrick đang khiến cho những người bạn cùng lớp của cậu thấy không thoải mái. Cậu cứ khăng khăng đòi mình là con gái.
Patrick biểu lộ ra những hành vi gọi là bất tuân với giới tính thơ ấu (childhood gender nonconformity = CGN). CGN không dùng để diễn tả một cậu bé mà đâu đó trong đám đồ chơi của nó có một con búp bê hay có lần nào đó, cậu đã từng thử vận vào bộ đồ diễn Bạch Tuyết của người chị gái.
Đúng hơn, nó dùng để diễn tả cậu bé có biểu hiện rõ rệt và cố định những đặc điểm + sở thích tiêu biểu của nữ tính, đồng thời, né tránh những hành vi đặc thù của nam tính, như là các trò chơi xô xát thô bạo.
Đã có những nghiên cứu đáng kể về hiện tượng này, đặc biệt là ở nam giới, gồm cả cuộc nghiên cứu dõi theo những cậu bé từ lúc thơ ấu cho đến đầu tuổi trưởng thành. Các dữ kiện cho thấy Patrick rất có khả năng khi trưởng thành sẽ là người đồng tính. Không phải tất cả đàn ông đồng tính đều thể hiện những hành vi quá nữ tính như thế khi còn là những cậu nhóc. Nhưng cuộc nghiên cứu cho thấy, các cậu bé có biểu hiện CGN, khoảng 75% trong số chúng –có thể hơn –sẽ là gay hoặc bi.
Điều khiến cho trường hợp của Patrick và Thomas lôi cuốn chúng ta là, nó đặt ra một nghi vấn cho cả hai giả thiết nổi nhất vào lúc này, trong những cuộc tranh luận dài hơi về đề tài điều gì khiến cho người ta thành gay: tạo hóa/bản chất tự nhiên hay là do nuôi dưỡng/khuyến khích, do gen hay do học đòi.
Là cặp sinh đôi đồng trứng, Patrick và Thomas khởi đầu như những dòng vô tính về di truyền (genetic clones (2)). Kể từ khi chúng mở mắt chào đời, môi trường sống, những thay đổi, các mối quan hệ đều như nhau, dưới sự nuôi dưỡng của cùng một cha mẹ, rồi cho đến khi mấy đứa trẻ biết nói, đứa thì bộc lộ những đặc điểm nữ tính rất đậm, đứa lại tỏ ra “đàn ông” hết thảy, cũng như các bà mẹ vẫn hay đứng nhìn con mình nô đùa mà nhún vai bảo nhau: mấy thằng nhóc nhà tôi khác nhau từ thời khắc chúng sinh ra cơ, không thể nghi ngờ gì về điều ấy đâu.
Vậy điều gì đã diễn ra từ điểm khởi phát là gen đồng nhất cho đến khi mấy đứa trẻ chào đời? Chúng đã trải qua 9 tháng trong dạ con. Trong cuộc chạy đua tìm kiếm vì những lẽ gì mà người ta thành gay/straight, đây chính là “vùng đất hứa” thú vị và giàu tiềm năng nhất.
Sao phải quan tâm đồng tính bắt nguồn từ đâu?
Chứng mình rằng con người ta sinh ra đã là gay sẽ mang đến cho họ sự công nhận rộng lớn hơn từ phía xã hội, đồng thời, bảo vệ họ tốt hơn trước những phân biệt đối xử và những tranh cãi về quyền lợi của người đồng tính. Trong thập niên trở lại đây, khi mà những luận cứ về sinh học đang thắng thế, các cuộc thăm dò ý kiến cho thấy ở người Mĩ, đặc biệt là những người trưởng thành trẻ tuổi, đang mở rộng lòng khoan dung với các gay và les. Và nó đích xác là cái mà những nhóm chống đối đồng tính vô cùng lo lắng. Hội Ðồng Nghiên Cứu Gia Ðình (Family Research Council), một nhóm cố vấn theo đạo Cơ-đốc bảo thủ ở Washington, D.C., lý lẽ trong cuốn Getting It Straight: phát hiện con người ta sinh ra đã là gay “sẽ thúc đẩy cho quan niệm rằng thiên hướng tính dục là một đặc trưng bẩm sinh, như chủng tộc; rằng những người đồng tính luyến ái, như những người Mĩ gốc Phi, phải được bảo vệ hợp pháp trước ‘sự phân biệt đối xử’; và rằng sự chống đối đồng tính phải bị xã hội lên án như cái chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Tuy nhiên, đó không phải sự thật.”.
Một số người chủ trương hôn nhân đồng tính biện luận rằng, chứng minh xu hướng tính dục là bẩm sinh sẽ tạo thuận lợi cho việc dàn xếp cuộc tranh luận trở nên giản đơn như một vấn đề về các quyền công dân. Điều này có thể thật, song, khi ấy, lại một lần nữa, tự do tín ngưỡng sẽ có được sự bảo hộ lâu dài của liên bang trước các đặc điểm bẩm sinh như chủng tộc hay giới tính.
Một thời gian dài ở thế kỷ 20, ý kiến nổi trội cho rằng đồng tính liên thông với quá trình dạy dỗ/giáo dục. Freud là một ví dụ, ông tự biện rằng những người mẹ “úm” con quá mức và những người cha xa cách, thiếu gần gũi/thân mật với con trai đã tạo điều kiện cho các cậu bé thành gay. Mãi cho đến năm 1973, Hội Tâm thần học Mĩ mới gỡ bỏ “đồng tính luyến ái” ra khỏi danh sách các rối loạn về tinh thần.
Sau đó, vào năm 1991, một nhà thần kinh học ở San Diego tên là Simon LeVay phát biểu với mọi người rằng ông đã tìm ra sự khác biệt mấu chốt giữa các bộ não của đàn ông đồng tính và dị tính mà ông nghiên cứu. LeVay đã chỉ ra một lùm nhỏ các tế bào thần kinh của phần hypothalamus phía trước (anterior hypothalamus (3)) –được tin rằng là nơi điều khiển hành vi tính dục, về trung bình, ở đàn ông đồng tính có kích cỡ nhỏ hơn hai lần ở đàn ông dị tính. Phát hiện của LeVay không lên tiếng trực tiếp cho cuộc tranh cãi: Tự nhiên hay do Nuôi dưỡng. Về lý thuyết mà nói, các khối thần kinh có thể đã thay đổi kích cỡ bởi do trạng thái đồng tính.
Nhưng dường như không phải như thế, và cuộc nghiên cứu cũng làm xìu đi những nỗ lực nhằm chứng minh đồng tính luyến ái trên cơ sở sinh học.
Về sau, cũng trong năm đó, chuyên gia tâm thần học Richard Pillard, đại học Boston, và nhà tâm lý học J. Michael Bailey, đại học Northwestern, đã thông báo các kết quả từ cuộc nghiên cứu của họ về các cặp nam sinh đôi. Họ phát hiện ra rằng, ở các cặp sinh đôi cùng trứng, nếu người này là gay, thì có khoảng 50% khả năng người còn lại cũng là gay. Với những cặp sinh đôi khác trứng, khả năng này khoảng 20%. Bởi các cặp sinh cùng trứng có cùng một bộ gen, còn các cặp khác trứng thì giống nhau khoảng nửa bộ. Người ta tin rằng các gen đã tạo ra sự khác biệt. Hầu hết các nghiên cứu đáng tin cậy phát hiện thấy tỉ lệ đồng tính chiếm 2 đến 4% dân số, thay cho con số ước lượng phổ biến “1 trong 10”.
Năm 1993 nổ ra một tin quan trọng: khám phá của Dean Hamer về “gen gay”. Thật ra, Hamer, một nhà nghiên cứu lành nghề thuộc đại học Harvard tại Viện National Cancer, không hẳn đã hoàn toàn liều lĩnh và thiếu chính xác khi nói ra điều đó. Ông phát hiện thấy những người anh em đồng tính cùng có một vùng nhiễm sắc thế X đặc trưng, gọi là Xq28, tỉ lệ này cao hơn ở những người đồng tính nam nhưng có anh/em là người dị tính. Hamer và những người khác đề xuất khám phá này rốt cuộc sẽ làm thay đổi cách hiểu của chúng ta về thiên hướng tính dục.
Hamer và những người khác ám chỉ khám phá về gen gay rốt cuộc sẽ làm thay đổi cách hiểu của chúng ta về thiên hướng tính dục.
Điều đó vẫn chưa diễn ra. Nhưng sự tập trung trọn vẹn cho những nghiên cứu về thiên hướng tính dục đã thế chỗ cho các nguyên nhân sinh học, và không còn nhiều nữa các nghiên cứu khoa học ra đời ủng hộ những lý thuyết trước đây –ràng buộc đồng tính với sự giáo dục/nuôi dưỡng. Freud có lẽ đã thấy tác động thay vì là căn nguyên của vấn đề, bởi một ông bố khi giáp mặt với đứa con trai rất nữ tính của mình mà có lẽ đã trở nên xa cách hoặc căm ghét hơn, dẫn đến việc mẹ của đứa trẻ trở nên bảo bọc con hơn. Những năm gần đây, các nhà nghiên cứu, những người ngờ rằng đồng tính là do bẩm sinh –là do di truyền hay các sự kiện diễn ra trong dạ con –vẫn đang tìm kiếm manh mối từ khắp nơi: các kích thích tố trước khi sinh. Thứ tự sinh nở. Độ dài ngón tay. Dấu vân tay. Tâm trạng căng thẳng (stress). Mồ hôi. Những cái chớp mắt. Những tương quan không gian. Tầm nghe. Khuynh hướng chỉ dùng một tay. Kể cả cừu “đồng tính”.
LeVay, là người đồng tính, nói rằng khi ông xuất bản nghiên cứu của mình cách đây 14 năm, một số gay và les đã chỉ trích ông vì đã thực hiện cuộc nghiên cứu mà có thể sẽ dẫn đồng tính luyến ái, một lần nữa bị gộp vào cùng với các tật bệnh và rối loạn. “Điều trái ngược đã xảy ra, nếu có thể nói được như vậy” -LeVay nói, ông giờ đã 61 tuổi (2005) và không còn làm việc trong phòng thí nghiệm nữa. Ông bảo các cuộc tìm kiếm cơ sở sinh học của hiện tượng đồng tính, bao gồm trong đó nhiều nhà nghiên cứu mà bản thân họ là gay/les “đang tiếp tục góp thêm địa vị cho người đồng tính trong xã hội”.
Các nghiên cứu này nhỏ bé + thiếu kinh phí, và các kết quả thường khiêm tốn. Dù vậy, do tính đa dạng của những nghiên cứu kiểu như thế, “tất cả đều cùng nhắm về một hướng, tạo nên cái nhìn khá rõ: các tiến trình sinh học có tác động đáng kể đến thiên hướng tính dục”, LeVay nói. “Song, cũng phiền cái là nó vẫn còn lờ mờ, chưa có gì thật sự trong rõ như pha lê mà bạn muốn”.
Dù vậy, chỉ vài tháng trước, những dấu vết lờ mờ ấy đã rõ ràng thêm.
Tháng Năm, các nhà nghiên cứu Thụy Điển báo cáo đã tìm thấy sự khác nhau trọng yếu trong việc bộ não của đàn ông dị tính và đồng tính phản ứng lại trước hai hợp chất nghi rằng là các pheromone (4)–những hóa chất có liên hệ tới mùi hương, đó chính là chiếc chìa khóa gợi dục ở động vật.
Hợp chất đầu tiên là từ nước tiểu của phụ nữ, thứ hai là từ mồ hôi nam giới. Chụp não cho thấy, khi đàn ông dị tính ngửi thấy hợp chất từ nước tiểu phụ nữ, vùng hypothalamus của họ sáng lên. Điều này không xảy ra với đàn ông đồng tính. Thay vào đó, vùng hypothalamus của họ sáng lên khi họ ngửi thấy hợp chất từ mồ hôi đàn ông, theo cùng một kiểu phản ứng của phụ nữ với hợp chất này.
Nghiên cứu này lại một lần nữa liên hệ hypothalamus với thiên hướng tính dục, tiếp bước cuộc nghiên cứu ở cừu. Khoảng 8% cừu đực nuôi ở trang trại đặc biệt chỉ thích “quan hệ” với các con cừu đực khác. Các nhà nghiên cứu tìm thấy một lùm các tế bào thần kinh, tương tự như LaVay đã nhận dạng ở não người, ở các con cừu “gay” cũng nhỏ hơn ở các con cừu “straight”. (Lại lần nữa, người ta có thể hiểu rằng, những khác biệt này chỉ cho thấy tác động của vấn đề hơn là căn nguyên của nó).
Tháng Sáu, các nhà khoa học ở Vienna báo cáo họ đã biệt lập được nhóm gen chỉ đạo thiên hướng tính dục ở ruồi giấm. Một khi “ấn” vào chiếc “công tắc” này, những nàng ruồi đổi gen sẽ cự tuyệt lời “chào mời” từ các chàng, thay vào đó, nàng “tấn công” các chị em khác, với những lời tỉnh tò và điệu vũ ve vãn hệt như các chàng vẫn làm.
Và giờ là một nghiên cứu về di truyền học đã kéo dài được 5 năm với quy mô lớn, đang thực hiện ở Bắc Mĩ. Cuộc nghiên cứu đã nhận được 2.5 triệu đô la từ Viện Sức khỏe Quốc gia (National Institutes of Health) -một chuyện hiếm có. Các nhà tài trợ thuộc Chính phủ có khuynh hướng “lánh mặt” các cuộc nghiên cứu về thiên hướng tính dục, họ biết rằng những trợ cấp dù nhỏ cũng sẽ vướng phải sự bất bình từ những nghị sĩ bảo thủ. Dựa trên nguyên mẫu 1000 cặp anh em đồng tính và những tiến bộ mới nhất trong di truyền, nghiên cứu này hứa hẹn sẽ mang đến sự khai sáng nào đó trong vũng tối về vai trò của gen đối với hiện tượng đồng tính luyến ái.
Việc tích lũy các bằng chứng về sinh học này, cùng với những triển vọng ngày càng gần, đang phát huy tác động. Hồi tháng trước, Rev. Rob Schenck, một nhà lãnh đạo lỗi lạc theo phái Phúc Âm của Washington, D.C, đã nói trước một đám đông lớn giới trẻ thuộc phái này rằng, đồng tính không phải là một sự lựa chọn mà là một thiên hướng, một điều gì đó đã “ăn sâu” trong con người ta. Schenck nói với tôi rằng, sự chuyển biến này có được nơi ông kể từ sau cuộc chuyện trò với các nhà tâm lý và nghiên cứu di truyền. Ông phản đối việc những người theo phái Phúc Âm nên tiếp tục chống đối đồng tính, nếu không “nhiều người theo phái Phúc Âm đang phần nào sống trong tình trạng quay lưng với sự tiến bộ”. Thông điệp của ông là: “Nếu đã không tránh khỏi những chứng cớ có tính khoa học đang đến đây, chúng ta phải được sửa soạn cùng với sự tiếp đáp yêu thương. Nếu không, chúng ta sẽ không nhận được bất kì sự tín nhiệm nào”.
Khi một sinh viên năm III, 21 tuổi được đưa vào máy chụp cộng hưởng từ (MRI), cô nắm giữ một bảng điều khiển với các nút “rất thích” và “rất không thích”. Hàng trăm các bức ảnh khiêu dâm chụp các đôi nam-nam và nữ-nữ lướt qua trước mắt cô. Độ gợi tình rồi cũng đến lúc sụt giảm đến mức buồn tẻ, và khó mà tránh được việc người ta sẽ tìm kiếm các chi tiết nhằm phân biệt bức này với các bức còn lại trong bộ ảnh. Vì thế, từ chỗ “Ôi này, trông kích cỡ của những bộ ngực đó kìa!” đến thành “Thế không được rồi, tăng thêm độ dài các móng tay cho cô ấy đi” và rồi “Sao thằng cha đó đã không mặc gì mà còn mang giày ống trên bãi biển làm chi vậy trời?”.
Không quan tâm chiếc nút nào cô ấy đã bấm, máy chụp cho thấy mức độ hưng phấn (arousal level) của cô với từng bức ảnh, tại một điểm khởi phát của nó trong não. Các nhà nghiên cứu thuộc ĐH Northwestern, ngoại thành Chicago, đang tiến hành công việc này tiếp theo các cuộc nghiên cứu của họ về sự hưng phấn bằng cách sử dụng những công cụ đo lường sinh dục. Họ thấy rằng trong khi đàn ông dị tính bị “đánh thức”(/kích thích) bởi những đoạn phim có hai phụ nữ quan hệ tình dục, và đàn ông đồng tính bị “đánh thức” bởi những đoạn phim có hai người đàn ông quan hệ tình dục, thì hầu hết đàn ông tự nhận mình là “bi” cho thấy những khuôn mẫu “đánh thức” họ là tình dục đồng giới. Ở phụ nữ, sự khác nhau lại càng ngạc nhiên hơn. Hầu hết phụ nữ, dù cho họ có nhận mình là straight, les hay bi thì cũng bị “đánh thức” đáng kể bởi tình dục của straight, gay và les. “Tôi không ám chỉ hầu hết phụ nữ đều là bi”, Michael Bailey nói, giáo sư tâm lý học mà phòng thí nghiệm của ông chỉ đạo các cuộc nghiên cứu. “Ý tôi là, dù cho khuôn mẫu đánh thức tính dục (sexual arousal pattern) của một người phụ nữ có là gì, nó chỉ đóng vai nhỏ trong thiên hướng tính dục của cô ấy”. Đó là sự khác biệt cơ bản so với đàn ông. Ở đàn ông, cái đánh thức/kích thích anh ta sẽ định hướng anh ta. Nó đơn giản như thế. Đó là cách mà đàn ông đồng tính nhận biết mình là gay.
Những nghiên cứu này đánh dấu sự trở lại của Bailey, 47 tuổi, cùng với những vấn đề thiết yếu của ông. Ông nói các nhà nghiên cứu cần có sự am hiểu sâu xa thiên hướng tính dục là gì trước khi họ có thể xác định nó đến từ đâu.
Thiên hướng tính dục của nữ giới đặc biệt mù mờ, ông nói, bởi còn quá ít các cuộc nghiên cứu được thực hiện. Còn về thiên hướng tính dục của nam giới, ông biện luận rằng giờ đã có đủ bằng chứng để nghĩ nó “hoàn toàn bẩm sinh”, dù vẫn chưa đủ để xác minh nó diễn ra như thế nào.
Nghiên cứu cặp sinh đôi của Bailey vào năm 1991 hiện vẫn còn được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu khác, như một trong những cột trụ trong những tranh luận về di truyền học quanh đề tài đồng tính. Song, một cuộc nghiên cứu toàn diện tiếp theo của ông trên các cặp sinh đôi ở Úc cho thấy một tỉ lệ thấp hơn nhiều về sự giống nhau trong thiên hướng tính dục giữa các cặp sinh đôi cùng trứng, khoảng 20%, dưới mức 50%. Bailey vẫn tin các gen góp phần quan trọng vào thiên hướng tính dục. Nhưng, ông nói, “Đó không phải là điểm mà tôi đặt cược cho những đột phá thực sự”.
Ông linh cảm một cuộc nghiên cứu sâu hơn về sự bất tuân với giới tính thơ ấu sẽ mang lại nhiều kết quả. Bởi, vẫn chưa rõ tỉ lệ những người đồng tính luyến ái nam (homosexual) và đồng tính luyến ái nữ (lesbian) có biểu hiện CGN khi còn là những đứa trẻ, Bailey và các đồng sự hiện đang tiến hành cuộc nghiên cứu sử dụng các đoạn phim mà gia đình của những người tham gia nghiên cứu (hiện đã trưởng thành) đã quay họ từ lúc nhỏ, để tìm kiếm các dấu hiệu của tình trạng “giới tính cong” (gender-bending behavior).
Nhà tâm lý học của ĐH Cornell, Daryl Bem đề xuất một giả định lý thú về việc CGN có thể dẫn đến đồng tính như thế nào. Theo lý thuyết này, điều mà ông gọi là “ the exotic becomes erotic” (tạm dịch: kì cục thành hấp dẫn), đứa trẻ được sinh ra với các đặc điểm về khí chất, chẳng hạn như mức độ lanh lợi và tính gây hấn, những đặc điểm này dẫn nó đến các hoạt động đặc thù của nam hoặc của nữ. Nó tìm kiếm những người bạn có cùng sở thích với mình để chơi chung. Vì vậy, nếu một bé trai mà những đặc điểm của nó dẫn nó đến trò chơi lò cò và lánh xa các trò bạo lực, nó sẽ cảm thấy khác biệt, và bị tẩy chay bởi những thằng bé khác. Điều này dẫn thằng bé đến nỗi sợ hãi và giận dữ (kích động sinh lý) về bộ dạng của mình, kích động rốt cuộc được chuyển đổi từ kỳ cục thành hấp dẫn (from exotic to erotic).
Những người chỉ trích đồng tính đã sử dụng lý thuyết của Bem, vốn nhấn mạnh yếu tố môi trường lên trên yếu tố sinh học, biện luận rằng thiên hướng tính dục không bẩm sinh và không cố định. Nhưng Bem nói lý thuyết của ông được gợi ra bởi những đặc điểm sinh học, và ông không thực sự biết được làm cách nào để thay đổi kết quả đồng tính.
Bailey nói có hay không lý thuyết của Bem chống đỡ, cái môi trường đáng được tập trung quan tâm nhất chính là nơi mà đứa trẻ đã trải qua khi nó còn ở trong dạ con của mẹ.
Chúng ta hãy trở lại với Thomas và Patrick. Bởi vì còn chưa rõ ràng: tại sao anh em sinh đôi với cùng phát xuất điểm về di truyền học giống hệt nhau, môi trường sống sau khi rời bụng mẹ tương tự nhau mà lại rẽ sang những hướng khác nhau như thế.
Trở lại điểm khởi phát có thể sẽ giúp ích.
Nam giới và nữ giới có sự khác nhau cơ bản về gen: nữ có 2 nhiễm sắc thể X, nam có một X và một Y. Tuy vậy, ngay sau thụ thai, khó mà nói được đâu là hợp tử nam và đâu là hợp tử nữ, ngoại trừ sự khác biệt về nhiễm sắc thể ẩn tàng bên trong. Thông thường, những thay đổi định hình tại một thời điểm mấu chốt trong quá trình phát triển bào thai, khi bộ não nam giới được “nam hóa” bởi các hormone giới tính. Bộ não nữ giới thì vẫn nguyên theo mặc định. Bộ não sẽ giữ nguyên “chức phận” nhi nữ của nó, miễn là nó được che chở, không bị phơi ra trước các hormone. Lý thuyết hormone về đồng tính luyến ái giữ quan điểm rằng, chính do sự phơi nhiễm (exposure) các hormone giới tính lưu thông quyết định một bào thai sẽ là nam hay nữ, như vậy, sự phơi nhiễm cũng phải tác động đến thiên hướng tính dục.
Trường hợp những đứa trẻ sinh ra cùng với sự rối loạn “biệt hóa giới tính” (sexual differentiation) xảy đến từ bên trong. William Reiner, chuyên gia về tâm thần học và là bác sĩ Niệu khoa, cùng với trường ĐH Oklahoma đã đánh giá trên 100 trường hợp như thế. Trong nhiều thập kỷ, giải pháp chuẩn mang tính y khoa với những cậu bé sinh ra mà dương vật rất không đầy đủ (hoặc thiếu hoàn toàn) là cắt xén phần thừa và khuyên ba mẹ cậu bé nuôi dạy cậu như một đứa con gái. Nhưng Reiner nhận thấy, sự nuôi dưỡng, khuyến khích (nurture) –cả khi bao gồm phẫu thuật sớm sau khi sanh –không thể “cắt” đi cái phần tự nhiên (nature). Trong đám trẻ với dương vật không đầy đủ/thiếu -những cậu bé mà được nuôi dạy như con gái, Reiner nói: “Tôi không thấy một ai bị hấp dẫn tình dục với nam giới”. Phần lớn trong số họ chuyển về giới tính nam và thuật lại rằng họ bị nữ giới lôi cuốn.
Trong quá trình phát triển bào thai, bản dạng tình dục (5) (sexual identity) được “cài đặt” trước khi các cơ quan sinh dục tượng hình, Reiner nói. Có lẽ, nó cũng “cá mè một lứa” với thiên hướng tính dục. Theo nghiên cứu của Reiner, trong số những em bé có nhiễm sắc thể X và Y mà được nuôi dạy như con gái, ông nhận thấy, duy chỉ có những người thuật lại họ có bản dạng tính nữ (female identity) và bị hấp dẫn với nam giới, là những người không có các “thụ thể” (“receptors”) cho phép các hormone tính nam làm công việc “nam hóa” của chúng trong dạ con.
Toàn bộ ý nghĩa của của điều này là gì? “Sự phơi nhiễm các hormone nam trước khi sinh đã đẩy khả năng bị hấp dẫn tình dục với nữ giới lên một cách đột ngột và ấn tượng”, Reiner nói. “Chúng ta có thể suy ra rằng, thiếu vắng sự phơi nhiễm hormone nam có thể đã động chạm gì đấy đến cái sự bị hấp dẫn với nam giới”.
Michael Bailey nói những phát hiện của Reiner tiêu biểu cho bước đột phá trọng đại, chỉ rõ “Dù cho cái gì đã gây ra thiên hướng tính dục đi nữa thì nó vẫn chịu tác động mạnh mẽ bởi sinh học trước khi sanh”. Bailey và Reiner nói câu trả lời hẳn không đơn giản chỉ như là sự phơi nhiễm các hormone giới tính. Sau hết, các mức độ phơi nhiễm ở một số người mà Reiner nghiên cứu đủ dị thường để tạo ra những khác biệt khổng lồ nơi các cơ quan sinh dục. Tuy thế, các cơ quan sinh dục ở người straight và gay, về trung bình là như nhau. Rất có khả năng, các hormone đã tác động lẫn nhau cùng với các nhân tố khác.
Các nhà nghiên cứu người Canada đã đưa ra những tư liệu phù hợp về “ hiệu ứng anh cả” (“big-brother effect”), họ phát hiện thấy khả năng một cậu bé là đồng tính tăng lên với mỗi người anh trai thêm vào mà cậu ấy có. (Thứ tự sinh không thấy đóng vai trò gì ở các les). Vậy, một người nam có 3 anh trai thì khả năng là gay sẽ gấp ba lần so với người không có người anh nào, mặc dù vẫn còn trên 90% cơ hội anh ta sẽ là straight. Họ biện luận rằng điều này là kết quả của một sự tương tác phức hợp bao gồm các hormone, các kháng nguyên và hệ miễn dịch của người mẹ.
Đến giờ, đã có bằng chứng xác thực cho thấy mối tương quan –chứ không phải nhân-quả, giữa thiên hướng tính dục và các nét tiêu biểu được thiết lập khi em bé còn ở trong dạ con. Nói đến độ dài ngón tay. Nhìn chung, đàn ông có ngón trỏ ngắn hơn ngón đeo nhẫn của họ; ở phụ nữ, độ dài của hai ngón này hầu hết là ngang nhau. Các nhà nghiên cứu phát hiện thấy ở các les thường có tỉ số (độ dài ngón trỏ và ngón đeo nhẫn –Noel) gần với nam giới hơn. Các nghiên cứu khác, dựa vào các chức năng của tai trong và phản ứng chớp mắt trước những tiếng ồn lớn bất ngờ, đã chỉ ra kết quả “nam hóa” nơi les, cũng như, căn cứ vào những bài tập nhận thức nhất định như nhận thức không gian và nhớ lại sự bài trí của các vật thể, đã chỉ ra những mẫu hình “nữ hóa” nơi đàn ông đồng tính.
Nhà nghiên cứu Lynn S. Hall, thuộc ĐH New York, nghiên cứu những nét tiêu biểu vốn đã được xác định từ trong dạ con, tự biện rằng: vì một lẽ nào đó Patrick đã bị căng thẳng trước khi sanh. Hẳn là trong suốt ba tháng đầu của thai kỳ, khi bộ não đang thực sự triển nở, cá biệt có những cấu trúc như hypothalamus tác động đến hành vi tính dục. Cơ sở của sự căng thẳng này có thể là vị trí của cậu bé trong dạ con hay do lưu lượng máu chuyển về phía cậu hoặc bất kể điều gì trong số rất nhiều những nhân tố khác nằm ngoài tầm kiểm soát của mẹ cậu. Hiện đã có thêm căn cứ các cặp sinh đôi đồng trứng có những trải nghiệm trong dạ con ngược với vẻ ngoài giống nhau như đúc của chúng, mà ta có thể nhận ra qua sự khác nhau thường gặp về cân nặng. Patrick khi mới sanh nhẹ hơn Thomas một pound (~373g).
Tóm lại, cuộc nghiên cứu đề xuất: từ rất sớm trong dạ con, khi bộ não của bào thai phát triển theo hướng hoặc là nam hoặc là nữ, điều gì đó làm cơ sở cho thiên hướng tính dục đã diễn ra. Không ai chắc cái gì đã gây ra nó. Song đây là điểm mà các gen có thể can dự vào, có lẽ bằng cách điều chỉnh sự phơi nhiễm hormone hoặc bằng cách kiểm soát kích cỡ của lùm thần kinh then chốt trong hypothalamus. Trước khi các nhà nghiên cứu có thể phân định, chúng ta cần trở lại với câu hỏi, thực ra, có “gen gay” hay không.
Quần chúng Boston phần nhiều đổ về dày đặc trong một chiều thứ Bảy nóng bức của tháng Sáu, họ đang trên đường tiến đến lễ hội Boston Pride lần thứ 35 được tổ chức hằng năm. Ngồi yên lặng trong lều của mình, Alan Sanders, người đàn ông 41 tuổi với giọng nói nhỏ nhẹ cùng bộ râu quai nón màu hung và mớ tóc lơ thơ. Ông đặt trên bàn trước mặt một núi kẹo Starburst màu cầu vồng và treo biểu ngữ: “CẦN: Đàn ông đồng tính có các anh em trai cho cuộc nghiên cứu di truyền phân tử về thiên hướng tính dục.”
Sanders là một chuyên gia về tâm thần học, ông cùng với Viện nghiên cứu Chăm sóc sức khỏe (Healthcare Research Institute) Evanston Northwestern dẫn đầu NIH (Viện sức khỏe quốc gia - National Institutes of Health) –tài trợ cho cuộc nghiên cứu về cơ sở gen của đồng tính luyến ái nam (www.gaybros.com). Ông dùng cả mùa Hè đi lại nơi đây, đến với các lễ hội gay pride với hy vọng tuyển được 1.000 cặp anh em đồng tính tham gia nghiên cứu. (Vợ Sanders mới sanh thằng cu thứ ba, bà không “điên lên” với cách thu xếp thời gian của ông). Người dân ở Boston hỏi ông các gen có thể góp bao nhiêu phần vào đồng tính luyến ái, ông nói con số ước chừng giỏi nhất là 40%.
Đồng tính luyến ái trong các gia đình –các cuộc nghiên cứu cho thấy 8 đến 12% những người anh em của đàn ông đồng tính cũng là gay, tương đương với 2 đến 4% dân số nói chung.
Sanders dùng phần lớn buổi chiều trao kẹo cho những người mà rõ là họ không có đủ điều kiện cho cuộc nghiên cứu những người anh em đồng tính: các bé gái dưới 13 tuổi, các les đã trường thành mặc áo phông với dòng chữ: "I Like Girls Who Like Girls" (tạm dịch: Tôi khoái những cô nàng mê gái), và những phụ nữ lớn tuổi đội nón rơm chỉ nói độc tiếng Trung Quốc. Trong số những người đăng ký tham gia là James Daly, một người 31 tuổi đến từ Salem (6). “Tôi nghĩ nó quan trọng với công chúng –đặc biệt đối với nhóm tôn giáo hữu khuynh (religious right) –biết rằng nó không phải là sự lựa chọn đối với một số người,” Daly nói. “Tôi cảm thấy tôi được sinh ra thế này.”
(Thẳng thắn mà nói, không có nhiều lãnh đạo nhóm đại diện cho những người bảo thủ tôn giáo và xã hội –những người cứ vẫn còn tranh cãi thiên hướng tính dục-trái với hành vi –là vấn đề của sự lựa chọn. Song song đó, họ khăng khăng rằng chẳng ai sinh ra là gay cả, Peter Sprigg, người phát ngôn của Hội đồng Nghiên cứu về Gia đình, mảng đề tài đồng tính, nói “Tôi không nghĩ người ta lại lựa chọn cái sự (bị) hấp dẫn giới tính (với ai đó) cho mình”.)
Trong 10 năm trờ lại kể từ khi Dean Hamer giật tít “gen gay”, lý thuyết về gen gay đạt được một số kết quả. Một nhóm người Canada không thể tái tạo lại những phát hiện của họ. Trước đó cùng năm, trong cuộc nghiên cứu về sự tác động của gen đối với thiên hướng tính dục, những gì mà đội nghiên cứu từ phòng thí nghiệm riêng của Hamer tường thuật lại chỉ là những kết quả lẫn lộn sau khi hoàn thành lần chụp cắt lớp đầu tiên toàn bộ hệ gen người.
Song, tất cả các nghiên cứu về gen cho đến giờ chỉ mới dựa trên những mẫu nghiệm nhỏ và thiếu nguồn tài chính để làm cho mọi chuyện ra ngô ra khoai. Nghiên cứu của Sanders cần phải đủ lớn để đưa ra một số đáp án xác thực về mối liên kết, cũng như phổ cập thông tin về sự bất tuân lề thói của giới (gender) và hiệu ứng anh cả (big-brother effect).
Tuy nhiên, có một câu hỏi lớn mà nghiên cứu của Sanders hẳn sẽ không thể trả lời. Nó liên quan tới sự tiến hóa. Nếu động lực hàng đầu của tất cả các loài là lưu hành gen cho thế hệ sau, và tỉ lệ đàn ông đồng tính được sinh ra ước chừng thấp hơn 80% so với đàn ông dị tính, tại sao gen đồng tính lại không bị xóa sổ bởi quyền lực của chọn lọc tự nhiên? Điểm bất lợi mang tính tiến hóa này là điều đã khiến cho Paul Ewald, nguyên là nhà nghiên cứu về sinh vật học thuộc ĐH Amherst, tranh luận rằng đồng tính luyến ái có thể đã gây ra bởi một con virus –một mầm bệnh có nhiều khả năng đã “hoành hành” trong dạ con. Lý lẽ đó đã gây ra một sự huyên náo khi ông và một đồng nghiệp đưa ra cách đây 6 năm, nhưng chưa có nghiên cứu nào hoàn thành để kiểm chứng nó, nó vẫn chỉ là một trong số nhiều giả định. Các nhà khoa học khác đưa ra những lý giải rất lôi cuốn nhưng không thuyết phục, hầu hết đều chú tâm đến phúc lợi đền bù, theo cùng một kiểu với cách giải thích rằng: gen gây ra bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm cũng đồng thời bảo vệ cơ thể khỏi bệnh sốt rét.
Một nghiên cứu vào năm ngoái bởi các nhà nghiên cứu ở Ý cho thấy những người bà con nữ giới của đàn ông đồng tính có khuynh hướng ‘mắn đẻ’ hơn (more fertile), dù rằng, các nhà phê bình chỉ ra, còn lâu sự mắn đẻ ấy mới đủ ‘đền bù’ cho sự thiếu hụt con cái của đàn ông đồng tính.
Sẽ còn nhiều thời gian để làm sáng tỏ nghịch lý của sự tiến hóa một khi –và nếu –các nhà nghiên cứu có thể nhận dạng những gen thực sự dính líu tới thiên hướng tính dục. Đến được cái đích ấy rất có thể đòi hỏi ở một cuộc nghiên cứu đầy hứa hẹn sự hợp nhất của nhiều đường lối. Đó chính xác là những gì đang diễn ra ở phòng thí nghiệm của Eric Vilain tại ĐH California, Los Angeles. Vilain, vị giáo sư trưởng (associate professor) về di truyền học người, và đồng sự của ông, Sven Bocklandt, đang dùng cừu đồng tính, chuột chuyển gen, anh chị em sinh đôi đồng trứng, và những cách tiếp cận mới trong di truyền học người nhằm cố gắng mở khóa bí mật thiên hướng tính dục.
Thay vì đi tìm kiếm gen gay, họ nhấn mạnh rằng họ đang tìm kiếm vài gen gây ra hoặc là sự cuốn hút với đàn ông hoặc là sự cuốn hút với phụ nữ. Các gen giống nhau đó sẽ hoạt động theo cách này ở phụ nữ dị tính và theo cách khác ở đàn ông đồng tính. Phòng thí nghiệm UCLA đang nghiên cứu làm thế nào mà những gen này có thể được bật “lên”/“xuống”. Câu hỏi không phải là bạn có những gen nào, mà đúng hơn, bạn sử dụng những gen nào, Bocklandt nói. “Tôi có những gen trong cơ thể để tạo ra âm đạo và mang thai, nhưng tôi không sử dụng chúng vì tôi là đàn ông.” Trong khi nghiên cứu các gen của cừu đồng tính, ông phát hiện một số gen được “bật lên” so với những con cừu đực dị tính.
Phòng nghiên cứu cũng đang kiểm nghiệm một lý thuyết hấp dẫn liên quan đến các gen được đánh dấu (imprinted genes). Bình thường, chúng ta có 2 bản sao của mỗi gen, một từ bố và một từ mẹ và hai bản này đều hoạt động. Chúng giống hệt nhau nên chẳng có vấn đề gì với chuyện bản sao nào đến từ ai. Nhưng với các gen được đánh dấu, nó lại là vấn đề(7). Dù rằng, theo quy luật tự nhiên, cả hai bản sao đều có mặt ở đấy, song, một bản –hoặc từ bố hoặc từ mẹ - bị bất hoạt. Hãy nghĩ đến một chiếc máy bay với một động cơ ở mỗi cánh, trong đó có một động cơ ngừng hoạt động. Một nghiên cứu gần đây của ĐH Duke đề xuất con người có hàng trăm gen được đánh dấu, một trong số đó nằm trên nhiễm sắc thể X mà nghiên cứu trước đã liên kết nó với thiên hướng tính dục.
Với các gen được đánh dấu thì không có bộ máy sao lưu (backup engine). Cho nên, nếu bản sao từ mẹ có điều gì không điển hình (atypical), bản sao từ bố sẽ không thể “bật lên”. Phòng thí nghiệm UCLA đang tập hợp DNA từ các cặp sinh đôi đồng trứng mà trong đó, một người là straight và một người là gay. Bởi các cặp song sinh khởi đầu như những dòng vô tính về di truyền. Nếu một gen được đánh dấu ở người anh/em song sinh này, nó cũng sẽ được dánh dấu ở người em/anh song sinh kia. Thông thường, khi các bào thai phát triển, mỗi khi một tế bào phân chia, DNA phân tách và tạo ra một bản sao của chính nó, tái tạo lại tất cả các kiểu thông tin di truyền. Đó là một quy trình phức tạp nhưng chính xác đến kinh ngạc. Tuy thế, việc ghi mã lên gen đánh dấu để giữ cho bộ máy sao lưu tắt, lại ít chính xác hơn.
Vậy thì, như thế nào mà các gen được đánh dấu lại có thể giúp ta giải thích tại sao anh em sinh đôi đồng trứng, người này là gay, người kia lại là straight?
Cho rằng có một gen được đánh dấu quy định sự thu hút với nữ giới, và có điều gì đó không điển hình ở bản sao mà những người anh em sinh đôi đồng trứng nhận được từ mẹ. Trong lúc toàn bộ quá trình tái tạo đó diễn ra, việc đánh dấu (để giữ cho bản sao từ bố bất hoạt) diễn tiến theo dự trình ở một người anh/em song sinh, và người anh/em song sinh này kết cục là gay. Nhưng thế nào đó với em/anh trai của cậu ta mà mã dùng cho việc đánh dấu bị mất, và thế mà, thay vì vẫn đương tắt, nhiên liệu tràn ra kích hoạt bộ máy sao lưu từ bố. Và người em/anh song sinh ấy trở thành straight.
Trong quá trình tường thuật lại câu chuyện này, tôi đã phải trải qua nhiều phen đau đầu. Cứ khi bị lung lay bởi những chứng cớ ủng hộ cho một lý thuyết còn dè dặt, tôi lại vấp phải những chứng cớ mới gây ra sự hoài nghi nào đó về nó. Rốt cuộc, tôi chấp nhận điều này như một tình thế không thể tránh khỏi trong cuộc kiếm tìm cơ sở của thiên hướng tính dục. Sau hết, đây là một lĩnh vực nghiên cứu được xây đắp từ các cuộc nghiên cứu còn riêng rẽ, thiếu kinh phí, và vấp phải hàng rào phản ứng từ những người chống đối.
Đồng tính luyến ái vẫn còn là một vấn đề gây ra sự bất đồng. Chỉ có thông qua nghiên cứu kiểm nghiệm mới khiến cho xã hội thừa nhận những gì mà khoa học phải lên tiếng về nguồn gốc của nó. Các nhà chỉ trích việc đầu tư vào các cuộc nghiên cứu về thiên hướng tính dục nói rằng (chúng ta) đâu phải đang chữa bệnh ung thư, và họ nói đúng. Vậy mà chúng ta vẫn đang dành ra nhiều khoản tiền hơn cho các cuộc nghiên cứu về những vấn đề khác, cũng chẳng phải là đang chữa bệnh ung thư gì, mà tiếng vang lại còn ít hơn trong xã hội.
Dù cho các cuộc nghiên cứu này còn thiếu hoàn chỉnh như thế nào, khi bạn đặt chúng lại với nhau và xem xét một cách cẩn thận. Thông điệp rõ ràng là: sự phát triển (của bào thai) trong khoảng thời gian trước khi sinh chừng như giữ vai trò hỗ trợ; căn nguyên của đồng tính luyến ái, ít ra là ở đàn ông, “lên khuôn” ngay từ khi đứa trẻ chào đời.
Sau nhiều năm sàng lọc tất cả các dữ liệu hiện hành, 2 nhà nghiên cứu người Anh Wilson và Qazi Rahman đi đến một kết luận còn rõ nét hơn trong cuốn Born Gay: The Psychobiology of Sex Orientation (tạm dịch: đồng tính bẩm sinh: Tâm sinh lý của thiên hướng tính dục), trong đó họ viết: “ Thiên hướng tính dục là điều gì đó mà chúng ta được sinh ra cùng với nó và không ‘mắc phải’ (acquire) từ môi trường xã hội của chúng ta”.
Trong khi ấy, mẹ của cặp song sinh Patrick và Thomas đã có được những nhìn nhận và kết luận của riêng cô. Cô nói những hành vi nữ tính của con trai cô ám chỉ rằng lớn lên cậu sẽ là gay, và cô thấy không có vấn đề gì với điều đó. Cô chỉ lo lắng về những điều thỉnh thoảng xảy ra với con trai mình.
Sau cuộc gọi định mệnh từ trường của Patrick, cô nói: “Tôi biết là mình phải nói chuyện với con, và tôi đã chẳng biết nói gì”. Cuối cùng, cô nói với con rằng dù cho cậu có thể chơi bất cứ trò gì cậu muốn ở nhà, cậu cũng không thể nói với các bạn cùng lớp cậu là con gái, bởi vì chúng nghĩ cậu đang nói dối. Và cô bảo với con một số bạn trai lớn hơn có thể sẽ thô lỗ với cậu và thậm chí đánh cậu nếu cậu còn tiếp tục khẳng định mình là con gái.
Sau đó cô hỏi con “Con có nghĩ con có thể tự thuyết phục mình rằng con là một cậu bé được không?”
“Được mẹ à,” cậu nói. “Sẽ giống như khi con cố gắng tập đọc, rồi một hôm con mở sách ra và con có thể đọc.”
Trái tim người mẹ se thắt lại. Cô có thể bảo với con điều mà cậu muốn là điều trên hết làm cô hài lòng. “Vể cơ bản, điều mà cậu đang nói đến đó hẳn phải là một phép màu –rằng một ngày kia tôi thức dậy và tôi là một cậu bé. Đó là cách duy nhất mà cậu có thể hình dung ra về nó”.
Kể từ cuộc chuyện đó trong năm, xử sự của Patrick có phần trở nên bớt nữ tính hơn. Mẹ cậu hy vọng đó là vì những sở thích của cậu đang rộng mở, chứ không phải vì cậu đang kềm nén chúng.
“Giờ thì tôi có thể cho rằng cháu nó hoàn toàn là straight, điều mà tôi không thể hình dung ra cách đây một năm,” cô nói. “Tôi cũng có nghĩ đến trường hợp cháu nó là gay, điều mà theo thống kê dường như là có khả năng nhất.”
Cô nói với kết quả nào thì cô cũng lạc quan, chỉ miễn sao cậu thấy hạnh phúc và không bị tổn hại. Cô tin vào sự thừa nhận nhiều hơn nữa của xã hội ngày nay biết chừng nào. “Đến khi các con tôi 20 tuổi, thế giới sẽ còn thay đổi hơn nữa.”
Đến lúc đó, thậm chí đã có đủ sự nhất trí nơi các nhà nghiên cứu để người ta có thể quên đi độ dài các ngón tay, mấy con ruồi giấm và cừu đồng tính để cùng nhau tiến đến những bí ẩn mới.
Tác giả: Neil Swidey | 14/08/2005
Noel phỏng dịch từ boston.com
© Copyright 2006 Globe Newspaper Company.
(1)Punch bug: một trò mà trẻ con hay chơi trên những chuyến xe đường xa. Người nào thấy chiếc punch bug (Volkswagen Beetle) đầu tiên sẽ la lên “PUNCH BUG” và thụi vào ai đó bằng tay.
(2)Thế hệ con mà nhìn chung giống hệt như bố mẹ được gọi là dòng vô tính (clone)
(3)hypothalamus: vùng dưới đồi
(4) Pheromone là những hương thơm tự nhiên mà cơ thể toát ra. Ở giới động vật, chúng có tác dụng thu hút bạn tình.
(5) sexual identity: ý thức của mỗi người về thiên hướng tính dục của mình hướng đến người cùng giới, người khác giới hay cả hai giới.
“Bản dạng tình dục” là một từ chưa phổ biến trong tiếng Việt, dịch từ “sexual identity”. Cách dịch khác thường gặp là “nhân dạng tình dục”, nhưng “nhân dạng” không thể hiện ý tự xác định như “bản dạng”. –iSEE (Viện nghiên cứu xã hội, kinh tế và môi trường)
(6) Thủ phủ của tiểu bang Oregon, Hoa Kỳ.
(7) Gen đánh dấu chỉ hoạt động trên DNA của con cái và "ngủ yên" trên DNA của con đực, hoặc ngược lại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét