Bời vì hệ thống ý thức mà chúng ta đang đòi hỏi không phải là bất cứ một ý thức hệ ngoại lai nào, mà chính là cái ý thức hệ của dân tộc này, đã sống và đã nhiều phen tranh đấu để sống là một dân tộc. Bởi vậy mà tôi phải bắt đầu bằng vấn đề Dân tộc tính, trước khi nói về dân tộc tính Việt Nam.
Trước khi vào đề. tôi xin cung kính mà tâm niệm vong linh các bậc anh hùng liệt nữ, đã ngót một thế kỷ nay kể từ Phan Đình Phùng đã hăng hái hy sinh hạnh phúc hay tính mạng cho dân tộc. Song sự kính phục có ở trong lòng mà tôi cũng không đừng nhận chân một sự thực này là tất cả những vận động giải phóng dân tộc, cách mệnh quốc gia ở Việt Nam từ trước tới nay, đã tỏ ra thiếu một lý thuyết vững vàng để hướng dẫn hành động và chống cự với các chủ nghĩa ngoại lai mà các ngài cảm thấy không thích hợp cho dân tộc.
Một chủ nghĩa gây được lòng tin và đáng được tin cậy, thì cần phải dựa vào một lý thuyết xác thực vững vàng. Bằng không thì chủ nghĩa có thể rơi vào không tưởng vì quá chủ quan. Đã không tưởng thì dễ thất bại. Sự thất bại liên tiếp của phong trào dân tộc Việt Nam thực đã chứng tỏ điều ấy vậy. Và cũng nhờ có một lý thuyết có hệ thống chặt chẽ mà phong trào cộng sản đã bành trướng trong khoảng 30 năm từ Âu sang Á.
Đây, chúng ta muốn kiến thiết một ý thức hệ dân tộc, trước hết chúng ta hãy hỏi xem dân tộc là gì về phương diện khoa học, nghĩa là xã hội học.
Đối với xã hội học, dân tộc tính có thực hay không? Phải chăng vì ta quá yêu nước ta, quá yêu tiếng ta mà chúng ta đã tạo ra chữ dân tộc tính? Có người hoài nghi sự thực tại Dân tộc tính, cho là một danh từ trừu tượng viển vông của một bọn trí thức ngồi rồi đã nặn ra trong lúc "trà dư tửu hậu."
Bởi vậy mà trước khi trình bày ý thức hệ của dân tộc Việt nam về phương diện sinh hoạt kinh tế, chính trị và văn hóa, chúng tôi cần xác định ở quan điểm xã hội học cái thực tại dân tộc. Đấy là đầu đề câu truyện bữa nay: Các yếu tố tạo ra dân tộc tính.
Dân tộc là gì?
Trước hết nó là một sự cộng đồng chung đụng của một số người. Giữa tất cả các người trong một dân tộc, nếu không có một cái gì chung đụng cộng đồng với nhau thì dân tộc ấy bất thành dân tộc.
Nhưng sự cộng đồng chung đụng ấy, phải là một sự cộng đồng bền vững. Một buổi họp chợ đông người hội họp không phải là một cộng đồng bền vững nay họp mai tan, như thế không có thể là một dân tộc được.
Người ta còn cho rằng một dân tộc là một cộng đồng về giòng dõi về huyết thống hay về gia tộc. Nhưng các quốc gia dân tộc hiện nay trên thế giới đều pha màu chủng loại khác nhau, huyết tính khác nhau nghĩa là lai giống đi nhiều. Vậy cộng đồng chủng tộc không cần thiết lắm cho sự thành lập của một dân tộc.
Dân tộc là một cộng đồng của mõt số người do lịch sử đã cấu kết nên. Dân tộc là một sản phẩm của lịch sử. Những đế quốc ngày xưa như đế quốc của Tần Thủy Hoàng, đế quốc Thành Cát Tư Hãn, đế quốc Nã Phá Luân, đế quốc La Mã, tuy có sự cộng đồng mà không có thể thành một dân tộc. Bởi vì sự cộng đồng ấy là một cộng đồng ô hợp bất thường do những cuộc chinh phục chiến thắng nhất thời, chỉ chờ sự thất bại của một chiến sĩ là sẽ tan rã.
Vậy một quốc gia dân tộc không phải là một biến ảo bất thường mà là một cộng đồng bền vững của một số người đã cùng nhau sinh tử cộng tồn.
Nhưng một cộng đồng bền vững chưa đủ tạo ra quốc gia dân tộc ví như nước Trung Quốc, nước Ấn Độ, nước Nga của Nga hoàng. Cái gì phân biệt một cộng đồng dân tộc với một cộng đồng chính thể?
Lãnh thổ và giống nòi
Khi người ta nói đến một dân tộc, một quốc gia, ở Việt ngữ thông thường hai tiếng Quốc gia hay Dân tộc đi đôi với giang sơn hay xã tắc. Giang sơn là núi sông, tượng trưng cho khu vực đất đai, hoàn cảnh địa lý khí hậu. Xã tắc vốn nghĩa xưa là đất với lúa, mà dân nông nghiệp đã thần thánh hóa để thờ phụng. Phải chăng giang sơn hay xã tắc đã là cái hoàn cảnh địa lý khí hậu, có biên giới nhất định nó đã ảnh hưởng vào cá tính dân tộc.
Thời kỳ mà nhân loại hãy còn là những bầy dân du mục, những bộ lạc sống lang thang nay đây mai đó, thì ở gia đoạn ấy con người đã nhận định được một cái linh hồn chung là cái ý thức chung của đoàn thể. Cái linh hồn chung ấy đối với họ lúc bấy giờ có một tính cách thiêng liêng bao trùm tất cả những ý thức cá nhân còn chìm trong toàn thể và hoàn cảnh. Nhưng vì chưa sống nhất định ở một chỗ nào, cho nên các đoàn thể du mục phải phóng đại ra một đối tượng là con Rồng, là Mặt Trời, là con Gà Trống ... để tượng trưng cho cái hồn chung ấy và để phân biệt đoàn thể mình với các đoàn thể khác. Ngay từ thời kỳ này, các bộ lạc du mục đã ý thức được cá tính của mình và đã cố gắng bảo vệ lấy. Thời kỳ này hẳn là huyết tính hay chủng tộc tính, gia tộc tính có đóng vai một yếu tố để cấu tạo ra cá tính, đoàn thể.
Lạc Long Quân với Âu Cơ, một trăm trứng nở ra một trăm con trai, năm mươi theo cha lên núi, năm mươi theo mẹ xuống biển, hay Sơn Tinh với Thủy Tinh tranh đấu đều là những thần thoại lưu truyền về sự phân biệt cá tính theo huyết tính, theo giống nòi. Và nếu giống nòi hay huyết tính ngày nay trên thế giới, không còn là một yếu tố quan trọng trong sự cấu tạo ra dân tộc nữa, nhưng ở Việt Nam hai tiếng đồng bào còn mang nặng tình yêu nước thương nòi, tỏ rằng đối với dân Việt ta, huyết tính vẫn còn là một yếu tố đáng kể trong dân tộc tính.
Rồi nhân loại bắt đầu định cư vào một khu vực đất đai nhất định. Ở đấy có những điều kiện thuận tiện để sinh tồn như đất đai phù sa trồng cấy, sông ngòi để giao thông, núi non, biển cả hay sa mạc là những thành trì tự nhiên để bảo vệ sự an cư lạc nghiệp và từ đấy bắt đầu có văn minh, vì có định cư mới có thể tích lũy và tiến bộ. Từ đấy thì quốc gia dân tộc mới bắt đầu lấy biên giới đất đai để hoạch định lãnh thổ. Và lãnh thổ hay quốc gia đã được thần thánh hóa để biểu thị cụ thể cho cái ý thức đoàn thể, cái ý thức dân tộc tính. Đấy là giang sơn xã tắc.
Và bắt đầu từ khi người ta lấy khu vực đất đai định cư, để làm vũ đài tranh đấu thì loài người cũng bắt đầu phân chia ra từng đoàn thể biệt lập. Sự sinh hoạt biệt lập trong một khu vực địa lý đã ảnh hưởng rất sâu vào tinh thần của các đoàn thể, khuôn đúc cho cá tính quốc gia, cho dân tộc tính mỗi ngày một rõ rệt, từ tính cách vật tổ mơ màng, dân tộc tính tiến tới tính cách văn hóa, chính trị, kinh tế.
Bởi vì hoàn cảnh địa lý đã đặt cho các phần tử của một đoàn thể định cư những vấn đề thực tế chung phải giải quyết. Muốn lợi dụng đất phì nhiêu ở các trung nguyên chẳng hạn để trồng cấy thì ít nhất cũng phải đem tất cả tài năng để khai khẩn, biến chỗ đất hoang vu thành đồng ruộng. Rồi chúng ta còn phải đào kinh, dẫn thủy để cho nước thủy triều ra vào tùy theo ý muốn. Tất cả những vấn đề thực tế ấy đòi hỏi ở chúng ta phải thi thố tài ba, nào tổ chức, nào phát minh, nào phân công và hợp tác với nhau chặt chẽ góp sức với nhau một cách lâu bền, có sự điều khiển chung công việc cho nhất trí. Luôn luôn sống trên một giải đất có sự xúc tiếp với nhau trong công việc sinh nhai, cũng như trong khi nhàn rỗi, chia vui sẻ buồn với nhau, do đấy mà tinh thần sinh tử cộng tồn ngày càng nẩy nở, liên kết các phần tử thành một khối trăm người như một, muôn người như một.
Do đấy mà người ta có thể hy sinh được tính mạng để bảo vệ lấy giang sơn, nghe theo tiếng gọi của sông núi. Vậy lãnh thổ thực là một yếu tố trọng đại để cấu tạo ra một dân tộc, để hun đúc nên một dân tộc tính.
Nhà sử học Michelet viết: "Không có một nền tảng địa lý thì dân tộc vẫn là động cơ của lịch sử hầu như đi trên không trung, lơ lửng như trong bức tranh tầu không đất đứng. Và chúng ta nên nhận thức rằng đất đai không chỉ là sân khấu cho hoạt động của đoàn thể vì những thức ăn, vì khí hậu thủy thổ mà thôi, nó còn ảnh hưởng người ta bằng trăm đường ngàn lối. Tổ nào chim ấy."
Gần đây nhà sử học Camille Julian cũng viết: "Sự khai thác một khu rừng rậm, việc làm khô ráo một cánh đồng lầy, cũng quan trọng cho sự định đoạt của một xã hội, quan trọng ngang với một cuộc cách mạng chánh trị hay là một tác phẩm văn chương."
Trên đây mới nói tới hai yếu tố cấu tạo ra dân tộc tính là yếu tố huyết tính hay là chủng tộc và yếu tố lãnh thổ hay địa lý. Nhưng cả hai yếu tố ấy cũng chưa đủ tạo nên dân tộc tính, tuy đều là yếu tố cần thiết.
Thực vậy, chủng tộc không đủ làm cho dân tộc Việt Nam nay còn là Việt Nam vì rằng trong số hàng trăm giống Việt ở phía Nam sông Dương Tử cùng thờ chung một vật Tổ là con Rồng, thì hầu hết đã bị đồng hóa với dân Tầu, đều đã bị Tầu hóa hoàn toàn, riêng chỉ có giống Lạc Việt này là còn tồn tại cho tới ngày nay.
Còn yếu tố địa lý, cộng đồng lãnh thổ, tuy là điều kiện căn bản để tạo nên tinh thần quốc gia, hay một dân tộc tính, và riêng đối với dân tộc Việt Nam yếu tố địa lý, cộng đồng lãnh thổ, khởi kỳ thủy ở lưu vực sông Nhị Hà, Thái Bình ngoài Bắc Việt thực đã đóng góp một vai trò quyết định cho sự bảo tồn nền độc lập của dân tộc Việt Nam đối với các cuộc xâm lược của quân Nguyên, quân Tống, quân Minh, quân Thanh.
Nhưng lãnh thổ cũng không đủ để quyết định dân tộc tính. Yếu tố lãnh thổ chỉ mới là điều kiện cho dân tộc hoạt động, xây dựng, biểu hiện dân tộc tính ở các cách thức tổ chức sự cộng đồng sinh hoạt về thực tế và tinh thần. Lãnh thổ không phải là một vật thần bí. Nó chỉ tượng trưng cho một cái gì cao siêu hơn, ấy là tinh thần đoàn kết và thống nhất.
Tổ chức kinh tế chánh trị
Thực vậy, lãnh thổ cộng đồng mới chỉ là điều kiện cho một hệ thống kinh tế chung thống nhất. Sự liên hệ về sinh hoạt kinh tế phần lớn do điều kiện giao thông thuận tiện. Giao thông bắt đầu là đường thủy, là sông ngòi, cho nên ở xã hội định cư nông nghiệp phần nhiều người ta họp chợ bên sông, cũng như người ta lập làng, lập ấp ở hai bên bờ sông. Có lãnh thổ rồi mới có phân công trong sự sản xuất và tích lũy. Có tích lũy rồi mới có tiến bộ, câu phương ngôn: "Có an cư rồi mới lạc nghiệp" rất xác đáng.
Nhưng quốc gia dân tộc không phải là một mớ người ô hợp. Và lãnh thổ hay chủng tộc không phải là một định mệnh thần bí thiêng liêng. Chúng ta nên nhớ bao giờ loài người cũng đóng vai chủ động trên mặt đất, cũng tự làm lấy lịch sử của mình. Sở dĩ loài người khác với bầy cầm thú, là vì ở chỗ ta tuy cũng phải thích ứng điều hòa với hoàn cảnh địa lý, khí hậu để sinh hoạt, nhưng người ta đã tiến bộ từ bầy cầm thú đến bộ lạc, đến quốc gia dân tộc. Sự tiến bộ ấy là nhờ sự biết sáng tác ra công cụ, kỹ thuật, biết tổ chức đời sống chung, biết phân công hợp tác. Trong sự tổ chức đời sống, về tinh thần cũng như thực tế, loài người tỏ ra khác với cầm thú ở chỗ biết ý thức, đã tự mình làm chủ được hoàn cảnh, tự mình làm lấy lịch sử và tiến bộ không ngừng. Đấy là văn hóa tính của nhân loại.
Các dân tộc muốn phát triển, muốn sống còn trên mặt địa cầu này thì hẳn rằng đời sống kinh tế không có thể để cho lộn xộn ô hợp, kẻ nọ tranh cướp kẻ kia, vô trật tự, vô kỷ luật, công tư lẫn lộn.
Một thời xa xăm trong những bộ lạc công cộng nguyên thủy thì đoàn thể chỉ mới là một gia tộc vật tổ hay là một thị tộc nhà Lang trong đó những tác dụng chính của đoàn thể như chánh trị, văn hóa, kinh tế còn lẫn lộn với nhau chưa phân hóa, và chủ quyền bấy giờ còn có tính cách mơ màng, thần bí.
Nhưng rồi chẳng bao lâu những đoàn thể đó càng ngày càng bành trướng, chủ quyền cũng phân hóa dần dần, đời sống kinh tế cũng được tổ chức, và quyền lợi công với quyền lợi tư đã có những luật lệ nghiêm chỉnh định đoạt. Cái lịch trình tiến hóa ấy đã được quan niệm phân minh từ hơn hai ngàn năm nay ở quyển sách Hệ từ, mà rất phù hợp với ý kiến của các nhà xã hội học hiện đại.
"Có trời đất rồi muôn vật mới nẩy nở. Có muôn vật rồi mới có phân biệt nam nữ. Rồi mới có vợ chồng. Rồi mới có cha con, gia đình. Rồi mới có lệ vua tôi. Rồi mới có giai cấp trên dưới. Từ đấy người ta mới đặt ra lễ nghĩa kỷ luật."
Vậy kỳ thủy trong sinh hoạt kinh tế chung đụng đã nẩy ra có sự phân công để tăng gia sản xuất. Tuy sự phân công ấy đã bắt đầu có từ thời kỳ du mục nhưng mới chỉ phân công theo Nam giới và Nữ giới, rất sơ sài. Chỉ khi nào bắt đầu định cư vào một lãnh thổ, một khu vực đất đai nhất định thì sự phân công và tổ chức mới trở nên phức tạp. Nhưng sự phân công vốn để trả lời cho nhucầu đoàn thể, chứ không có ngụ ý phân chia giai cấp, quí tiện, để rồi tranh đấu một mất một còn. Nếu thực sự có sự tranh đấu giữa người với người để tiêu diệt lẫn nhau theo đúng nghĩa: "Người là lang sói với người" thì nhân loại còn làm sao mà trưởng thành quốc tộc, dân tộc? Thì đâu còn là dân tộc tính?
Trái lại dân tộc đã luôn luôn biểu dương cái ý thức và sứ mệnh lịch sử của nó. Bên trên sinh hoạt kinh tế cộng đồng càng ngày lễ nghĩa càng phát triển, càng ngày tổ chức chính trị càng trở nên phức tạp và cần thiết. Khi nói đến cái ý thức của một quốc gia dân tộc thì người ta nghĩ ngay đến cách thức tổ chức đời sống chung, tức là chế độ chính trị và xã hội kinh tế của nó. Vậy điều kiện thiết yếu của một dân tộc là điều kiện tổ chức đời sống chung. Điều kiện này đòi có sự tổ chức chủ quyền để điều hành nhất trí quyền lợi kinh tế. Tổ chức chủ quyền chính trị và kinh tế là chế độ và triều đại.
Chế độ và triều đại đã đóng một địa vị trọng yếu trong việc củng cố cho cái ý thức quốc gia dân tộc. Nhà xã hội học Frazer, trong cuốn tìm hiểu về những nguyên do thần bí của quân chủ có viết: "Sự trung thành với nhà vua là một liên hệ chính trị cơ bản ở nước Pháp dưới chế độ xưa, cũng như tất cả các dân tộc Âu Tây. Dân tộc đồng nhất với chế độ quân chủ, bởi một hiện tượng tương tự như hiện tượng đã chuyển dịch cho các đế vương đầu tiên ở Ai Cập tất cả thế lực do các tín ngưỡng cổ xưa đã biểu lộ tất cả thế lực thần bí của vật tổ." Frazer (Les origines magiques de la royauté). Hẳn rằng chế độ sinh hoạt kinh tế, chính trị đều là những yếu kiện, những động cơ thúc đẩy nhân loại trong lịch trình tiến hóa. Nhưng phải chăng đấy là nguyên lý tạo ra dân tộc? Nước Gaulle lẫn lộn nhiều thị tộc đã thống nhất thành một quốc gia sau cuộc chinh phục và đô hộ của Đế quốc La Mã. Song phải chăng cuộc chinh phục và thống nhất ấy chỉ tựa vào võ lực và sức mạnh thống trị? Ngoài sức mạnh thống trị, phải chăng cuộc đô hộ của La Mã không mang lại cho đất Gaulle một nền văn hóa La Hy làm nguyên lý thống nhất của dân tộc Pháp.
Cũng như đất Giao Chỉ đã bị nhà Hán đô hộ hàng mười thế kỷ. Các bộ lạc thị tộc sống trên đất Giao Chỉ bấy giờ dưới quyền thống trị của nhà Hán đều đã đoàn kết lại thành một khối thống nhất. Nếu sức mạnh thống trị và chế độ có thể thống nhất được thì sao Giao Chỉ không thấy sát nhập vào bản đồ Trung Quốc, như Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam chẳng hạn và dân Giao Chỉ sao không đồng hóa vào với dân Tàu như Mãn, Mông, Hồi, Tạng mà lại thống nhất thành một khối là dân tộc Việt Nam ở trên một quốc thổ biệt lập với Trung Quốc là Đại Cồ Việt?
Vậy chế độ chính trị với sức mạnh võ lực không đủ để tiêu diệt được cá tính độc lập của dân tộc Việt nam. Bởi vậy mà sau những cuộc khởi nghĩa kế tiếp tuy thất bại luôn, nhưng nuôi được cái tinh thần bất diệt của một đoàn thể, muốn sống riêng biệt, độc lập, tự do để tự mình tổ chức lấy đời sống chung của mình. Rồi mãi tới Đinh Bộ Lĩnh, người đã thống nhất được thập nhị sứ quân, nước Việt Nam mới trưởng thành là một quốc gia độc lập. Nhưng cũng chính vì cái tinh thần văn hóa Trung Hoa nó đã dạy cho dân Việt biết cách tổ chức nền thống nhất của mình. Xem thế đủ biết chế độ chính trị biểu thị cho ý chí sống chung của đoàn thể hơn là một nguyên lý cấu tạo ra dân tộc.
Nhưng cái tinh thần quốc gia dân tộc ấy, trải qua các giai đoạn lịch sử về trước, nếu có biểu thị ra dưới hình thức trung quân và trung thành với triều đại thì chỉ vì các nhà vua ấy, các triều đại ấy đã tượng trưng ở thời đại ấy cho cái ý chí của đoàn thể như là hiện thân của những nguyện vọng chung, như thế lực của tâm hồn chung hợp thành cái nguyên lý chính thức của chủ quyền quốc gia dân tộc. "Duy thiên âm trất hạ dân": Chỉ có trời ngầm xuống ở nhân dân.
Hội nghị Diên Hồng dưới triều Trần đã chứng minh nhà vua không dám vũ đoán tự quyết về vận mệnh đoàn thể. Nhà vua lưỡng lự muốn hàng địch, mà nhân dân thì quyết đánh, kết cục ý chí của nhân dân đã vạch đường cho triều đại phải tuân theo.
Như vậy thì nhà Nước với chế độ chính trị kinh tế không tạo nên được tinh thần dân tộc. Quyền lợi kinh tế có thể là một động cơ để đoàn kết, để bảo vệ lấy quyền sống thực tế. Nhưng nó cũng lại là động cơ để chia rẽ, bởi vì lòng ích kỷ bản nhiên của con người "Giầu ghen khó ghét."
Cộng đồng quyền lợi thực không phải nguyên lý tạo nên các phong trào giải phóng dân tộc liên tiếp diễn ra trên thế giới kể từ sau cuộc thế giới đại chiến 14-18 đến nay. Năm 1923, đã xảy ra một việc chưa từng thấy ở lịch sử chính trị và ngoại giao quốc tế. Hội nghị quốc tế Lausane chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ đã ký với chính phủ Hy Lạp một hiệp ước trao đổi từng khối lớn nhân dân của nhau. Dân Hy Lạp ở Thổ trở về đất Hy và Thổ ở Hy trở về đất Thổ. Sau đấy thì từng vạn người dân Cơ Đốc vốn sinh sống ở đất Thổ từ trước năm 1914 đã trở về Hy Lạp hết. Nền kinh tế ở Thổ do đấy mà bị đảo lộn, vì tất cả nền nội thương ở Thổ và một phần lớn ngoại thương nữa, trước năm 14-18 vốn ở trong tay khối dân Hy Lạp ấy cả. Các nhà lãnh đạo Chính phủ Quốc gia Thổ lúc ấy tuy biết trước sự tai hại về quyền lợi kinh tế sẽ xảy ra như thế, nhưng vì tinh thần dân tộc đòi hỏi, bắt buộc họ phải quyết định sự trao đổi ấy bất cứ bằng một giá nào, để kiến thiết lại một quốc gia độc lập hoàn toàn. Do đấy chúng ta thấy sự cộng đồng quyền lợi kinh tế phải ở sau sự cộng đồng ý thức quốc gia dân tộc.
Và sự cộng đồng quyền lợi kinh tế không đủ khiến cho dân Ấn Độ từng khối lớn nhân dân nổi lên phong trào bất hợp tác. Trong hàng ngũ có đủ các tầng lớp người bất phân giai cấp, nào là trí thức, nào là vô sản, lao động, nông dân, thương gia, công chức, học sinh, nam phụ lão ấu, một lòng đoàn kết đứng trên quyền lợi vật chất để hưởng ứng tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc.
Lại như ở Việt Nam trải qua ngót một thế kỷ nay, sự cộng đồng quyền lợi không thể giải thích cho bao nhiêu hiện tượng hy sinh tính mạng cho Tổ Quốc, bị tù tội, bị lao lung của khắp các từng lớp xã hội Việt Nam kẻ giầu cũng như người nghèo, kẻ học thức cũng như người thất học.
Vậy thì ngoài sự cộng đồng quyền lợi kinh tế còn có những yếu tố tâm lý, động cơ tinh thần phức tạp tập hợp lại để cấu tạo ra cái thực tại xã hội là dân tộc, cái ý thức quốc gia đứng ở trên ý thức giai cấp. Những nhà chủ trương giai cấp đấu tranh vì quyền lợi kinh tế cộng đồng cũng phải thừa nhận cái thực tại Dân Tộc Tính, như Horrabin chẳng hạn, tác giả cuốn "Địa lý kinh tế sử đại quan" xuất bản 1929 ở Luân Đôn: "Chúng tôi thừa nhận thực tại của Dân tộc tính. Và nếu không có bằng chứng gì khác nữa, thì những biểu thị của dân Ái Nhĩ Lan và dân Ấn Độ cũng xác nhận cho cái thực tại ấy vậy." (La Revol. Prol. Ed tr. 67)
Và đứng trước cái sự kiện lịch sử hiếm có ngày nay đang diễn ra ở trước mặt là từng khối người bất phân tín ngưỡng hay giai cấp, gần một triệu lũ lượt bỏ mồ mả tổ tiên để mạo hiểm vào đây. Để tìm cái chi? Quyền lợi chăng? Quyền lợi còn phải có công trình khai thác. Vả chăng có ngu chi mà bỏ quyền lợi sẵn có để đi tìm một quyền lợi viển vông ở phương xa đất lạ? Không, cái việc di dân khổng lồ còn đang tiếp diễn chỉ vì một lý do, môt động cơ giản dị là: Dân tộc tính truyền thống của dân Việt, vượt lên trên tất cả quyền lợi nhỏ nhen.
Ngôn ngữ và tâm lý chung
Ngoài những yếu tố kể trên như huyết thống, lãnh thổ, chế độ kinh tế và chính trị, đều là những yếu tố thiết yếu để tạo thành cái thực tại xã hội là Dân tộc, còn một loại yếu tố đặc biệt thiết yếu nữa là yếu tố tâm lý chung và ngôn ngữ. Muốn cùng nhau chung sống trong một đoàn thể thì ít nhất cũng phải cảm thông được với nhau; ngoài tình đồng bào còn phải giao dịch trao đổi với nhau về tư tưởng và tình tự. Nào phải chỉ có sự trao đổi tinh thần giữa người sống mà thôi. Còn phải truyền tử nhược tôn, thế hệ này truyền lại gia bảo tinh thần cho thế hệ sau nữa. Đây là sứ mệnh của văn tự ngôn ngữ. Ngôn ngữ quả thật là một lợi khí để cho người nọ người kia hiểu nhau. Có hiểu nhau rồi mới hợp tác, mới có sự đồng tình nhất trí trong hành động của đoàn thể. Các nhà xã hội học thuộc về lập trường Duy tâm hay Duy vật, thảy đều công nhận ngôn ngữ là một điều kiện tối thiết yếu cho sự sinh hoạt và tiến hóa của xã hội nhân loại. Đối với dân tộc, tiếng nói mẹ đẻ lại càng thiết yếu để thống nhất ý chí, thống nhất nhân tâm. Nhưng tiếng nói mẹ đẻ có phải là yếu tố quyết định cho sự tốn tại của dân tộc hay không? Đây là vấn đề đã gây lên hai bên bờ sông Rhin một cuộc khẩu chiến kịch liệt giữa lý thuyết Quốc gia Đức với lý thuyết Quốc gia Pháp. Nhà tư tưởng Đức là Fichte, lên tiếng lấy ngôn ngữ làm tiêu chuẩn của dân tộc tính. Ông căn cứ vào những triết gia như Bacon, Vico và Leibnitz đều chủ trương cái yếu tố giản tiện của lịch sử một dân tộc là tiếng nói. Trong những bài diễn thuyết cho dân tộc Đức, ông định nghĩa một dân tộc tính như sau:
"Những kẻ nói cùng một thứ tiếng là một đoàn thể mà tạo hóa đã liên kết với nhau bằng những sợi dây phức tạp và vô hình." Cùng một chủ trương ấy, Rohr trong Hàn lâm viện Đức, về tiếng nói mẹ đẻ có trả lời câu hỏi "Một dân tộc là gì?": - "Chúng tôi gọi một dân tộc cái bản ngã chung mà tính cách riêng biệt thì căn cứ vào tiếng nói, vào chính cái phương tiện tinh thần nó đã tạo ra cái quan niệm của chúng ta về thế giới và về nhân loại, sự tranh đấu của dân tộc Đức là sự tranh đấu cho ngôn ngữ. Những biên giới dân tộc ngày nay trước hết đi theo với biên giới ngôn ngữ. Kẻ nào cho con cái mình trưởng thành ở một tiếng nói ngoại quốc thì ấy là đã làm quà con cháu mình cho một dân tộc khác. Vận mệnh của ngôn ngữ chính là vận mệnh của dân tộc."
Theo nhà lãnh tụ quá khích quốc gia thì tiếng mẹ đẻ, thứ tiếng mà chúng ta suy nghĩ, thứ tiếng mà chúng ta dùng để phản ứng lại một cách tự nhiên với những việc xảy ra hàng ngày ra bên ngoài, tiếng nói ràng buộc chúng ta vào một nến văn hóa và tục lệ truyền thống, tiếng nói nó khuôn đúc tâm hồn chúng ta hẳn là một tiêu chuẩn quyết định dân tôc tính. Sự thực thì luôn luôn và bất cứ ở nơi nào, hễ công dân có trường hợp tỏ bầy ý muốn một cách tự do thì nó sẽ phát biểu về vấn đề dân tộc tính bằng tiếng mẹ đẻ. Chính tiếng mẹ đẻ hơn là tiếng sinh ngữ khác đã tạo ra ý thức dân tộc, cái ý thức nó quyết định ý chí của người ta muốn làm công dân của một dân tộc nhất định nào. Phải chăng cũng vì một ý tưởng động cơ ấy mà cách đây 30 năm học giả Việt Nam ngoài Bắc trong bầu không khí thất vọng về chính trị đã phải đề cao truyện Kiều để cố bảo vệ lấy quốc hồn, quốc túy:
"Truyện Kiều còn tiếng ta còn
Tiếng ta còn nước ta còn."
Đấy là đề cao triệt để ngôn ngữ vậy. Nhà xã hội học tuyên bố về ngôn ngữ rằng: "Không thể có ở đâu một tiếng nói thống nhất, ngoài nơi nào đã có một dân tộc, hay là ngoài nơi nào đã thấy có một dân tộc có ý thức về sự thống nhất quốc gia dân tộc."
Nhưng ở thế giới hiện nay có những dân nói cùng một thứ tiếng mà hợp thành hai dân tộc như Anh Mỹ chẳng hạn, lại cũng có thể như nước Thụy Sĩ gồm bốn thứ tiếng nói khác nhau. Và tiếng nói là sản phẩm của lịch sử xã hội, như Meillet đã nhận xét: "Mỗi một tiếng nói là một sản vật của một lịch trình tiến hóa trong ấy có những ảnh hưởng phức tạp. Tiếng nói, hơn là một chế độ, tập tục xã hội khác, đòi phải giải thích bằng lịch sử."
Vậy thì tiếng nói thay đổi tùy theo thời đại và địa phương. Nó không phải là nguyên lý đẻ ra sinh hoạt dân tộc. Nó phải dựa vào sinh hoạt để chứng minh và nó phát xuất tự cuộc sinh hoạt của dân tộc.
Bởi vì ngôn ngữ không có miên tục tính, thay đổi với thời gian và không gian như thế, cho nên ở bên này sông Rhin, nhà triết gia Renan đại diện cho tinh thần dân tộc Pháp đã lấy thuyết tâm linh về dân tộc tính để trả lời thuyết ngôn ngữ về dân tộc tính của triết gia Đức như sau: "Một dân tộc là một linh hồn, một nguyên lý tâm linh."
Cái linh hồn ấy thuộc về quá khứ và hiện tại. Quá khứ là của chung dân tộc gồm cả một gia tài kỷ niệm vinh quang hay tủi nhục. Hiện tại là một nguyện vọng chung, một mối đồng tâm cùng nhau sinh tử cộng tồn, một ý chí chung để tiếp tục làm vẻ vang rạng tỏ cái hương hỏa bất phân tổ tiên để lại. Một dân tộc cũng như một cá thể là kết quả của một dĩ vãng xa xăm của bao nhiêu sức cố gắng, bao nhiêu nỗi hy sinh, bao nhiêu lòng tận trung báo quốc. Thờ phụng tổ tiên là một trong những hành vi chính đại để ghi nhớ công ơn người đã tạo tác cho ta. Một quá khứ vẻ vang, những danh nhân lịch sử, một vinh quang chân chính, đấy là tất cả vốn liếng xã hội làm nền móng cho cái ý tưởng quốc gia dân tộc.
Lấy linh hồn chung của dân tộc như Renan đã tuyên bố, kể thì cũng quá trừu tượng thật, nhưng dân tộc mà sở dĩ tồn tại, và biết bao con dân đất nước trên thế giới đã nổ lực hy sinh tất cả để bảo vệ Tổ Quốc tự do độc lập là vì người ta tin vào Tổ quốc như một cái gì thiêng liêng, bất diệt, vô cùng linh động vượt quá giới hạn của không gian và thời gian.
Cho dân tộc có một linh hồn mà bảo là chủ quan không xác thực thì tức là muốn phủ nhận địa vị chủ động của loài người trên mặt đất.
Non cao ai đắp mà cao
Sông sâu ai bới ai đào mà ra?
Vô ý thức hay ý thức, nhân loại cũng tự làm lấy lịch sử của mình, cho nên dù thuyết tâm linh của Renan có quá trừu tượng đi nữa, chúng ta cũng không có thể phủ nhận được yếu tố tâm linh về Dân tộc tính.
Giữa hai thuyết Dân tộc tính trên đây, một của Đức, một của Pháp, một đằng căn cứ vào điều kiện khách quan là ngôn ngữ, một đằng căn cứ điều kiện chủ quan là tâm linh, thì có thuyết thứ ba là thuyết truyền thống của dân tộc Việt mà người anh hùng nhà Lý đã thu vào bốn câu thơ bất hủ:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
(Núi sông Nam có Vua Nam Việt
Trên sổ trời riêng biệt phân minh
Sao người xâm phạm, nghịch binh?
Chờ coi người sẽ tan tành hư không.)
Đây Lý Thường Kiệt đã lấy Sơn Hà Xã Tắc làm yếu tố quyết định cho dân tộc tính. Sơn Hà Xã Tắc đây không phải là Núi Sông vật hình mà là Sông Núi có hồn, theo tin tưởng truyền thống của dân Việt. Và Xã Tắc không phải chỉ là tổ chức hình thức lễ nghi mà là cả một biểu tượng về đất đai lúa thóc tức là thần thánh hóa tổ chức cộng đồng sinh hoạt kinh tế của dân nông nghiệp. Như vậy Sơn Hà Xã Tắc thực biểu thị cái ý niệm Dân tộc tính do sự tổng hợp yếu tố tâm linh với yếu tố vật thể, điều kiện chủ quan với điều kiện khách quan đã tạo nên.
Họ Lý tin vào Sơn Hà do mệnh Trời ngầm định, nhưng không quên "Có trời mà cũng có ta." Không quên cái ý chí quật cường, cái vai trò chủ động của nhân dân Việt, cho nên Ông tin chắc đánh tan những quân xâm lược. Bắc cự Tống, Nam phạt Chiêm Thành, Tây chinh Mường Mán.
Nhờ có một tin tưởng thần bí vào Sơn Hà Xã Tắc, vào Dân tộc tính linh động, vào chủ quyền Quốc gia như vậy, nên tướng sĩ nhà Lý đã mở một thời kỳ võ công oanh liệt của nước nhà. Và hơn thế nữa, binh pháp Việt Nam lại còn được người Tàu qua học hỏi, bắt chước. P. Pasquier trong sách "L'Annam d'autrefois" phải khen rằng: "Nước Nam biết dùng lính làm ruộng trước nước La Mã thủa xưa."
Vậy Dân tộc tính đâu phải một vật không linh động? Dân tộc ý thức sứ mạng lịch sử của nó, ý thức vai tuồng chủ động của nó biểu hiện ra thời gian và không gian bên ngoài, nào vật tổ, nào lãnh thổ, nào văn hóa, nào quốc học, nào kinh tế chính trị. Cái ý thức ấy tồn tại như André Stiegfried trong Hàn Lâm Viện Pháp đã nhận định:
"Trong tâm lý các dân tộc có một căn bản bất biến nó luôn luôn biểu hiện ra. Về nhiều điểm chúng ta còn giống với tổ tiên Gaulois của chúng ta, và những đặc tính mà sử gia Tacite thời La Mã đã ghi nhận được ở các dân Man di hay các dân Do Thái đương thời thì cũng còn nhận thấy được ở dân Đức, dân Do Thái ngày nay. Tuy nhiên phải có những sự thích ứng." (L'Âme des peuples)
Cái ý thức ấy manh nha nẩy nở tự bên trong sâu thẳm tâm hồn các phần tử nhân dân để phóng đại ra bên ngoài ở các biểu hiện. Rồi lại từ các biểu hiện cụ thể ấy phản chiếu vào trong tâm hồn để lại phóng đại ra những chiến công oanh liệt của tướng sĩ, những chí khí dũng mãnh của sĩ phu, những hành động phi thường, khảng khái của tất cả anh hùng dân tộc. "Thà làm quỉ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc." (Trần Bình Trọng)
Như vậy dân tộc nào phải vô hồn?
Hồn của nó nằm trong Dân tộc tính, mọi sợi dây truyền thống bất tuyệt, nối quá khứ với hiện tại, kể từ vật tổ Rồng Tiên đến Hồn Sông Núi, đến Sơn Hà Xã Tắc, cho đến hồn nước ngày nay ở miệng nhà cách mạng Quốc Gia Phan Bội Châu: "Chứa chan Máu Quốc, Nước vẩn vơ hồn."
Hồn nước, cái ý thức truyền thống khi tiềm tàng khi biểu lộ, từ cá nhân thông với núi sông vũ trụ, một dòng bất đoạn bất phân nối quá khứ với hiện tại và tương lai, đây là Dân tộc tính, và Dân tộc tính ấy có thật.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét