Trang

Chủ Nhật, 12 tháng 6, 2011

Nơi Người Chết Mỉm Cười

Ngày 1 tháng Mười 1991, Leningrad chính thức trở lại với tên khởi thủy của nó, Saint-Petersburg; chấm dứt cuộc tranh luận bắt đầu cùng với thời kỳ đổi mới, glasnost. Những người hô hào chuyện đổi tên, bị buộc tội còn nuối tiếc chế độ quân chủ, và thiếu lòng yêu nước (St. Petersburg đã ở trên bản đồ hành quân của các tướng lãnh của Hitler, người muốn đổi tên thành phố ngay khi chiếm được nó). A. Solzhenitsyn muốn thành phố mang tên Svyato-Petrograd. Solomon Volkov, tác giả cuốn St. Petersburg: Một Lịch Sử Văn Hóa (Antonina W. Bouis dịch, nhà xb Free Press, 598 trang, 1997), cho rằng nhiệt tình của dân Nga ở đây là do sự quan trọng mang tính biểu tượng của Petersburg, một thành phố gắn liền với những thời kỳ hỗn loạn nhất trong lịch sử Nga. Những người quốc gia coi Petersburg là một toan tính Âu châu hóa, nhằm cắt nước Nga ra khỏi những giá trị truyền thống. Những người chủ trương tự do, phe nhóm chính trị, coi đây là biểu tượng quốc gia hồi phục, sẵn sàng tiến lên, đúng như mong ước của những người đã xây dựng thành phố, "cửa sổ về phía Tây", "cánh cửa độc nhất tới Âu-châu".
Đối với văn nghệ sĩ, trí thức thời kỳ tiền-cách mạng, Petersburg phản ảnh những chia cắt đau thương của linh hồn Nga. Việc đào xới những mâu thuẫn này của Dostoevsky trong Ghi Chú Dưới Hầm đã ảnh hưởng sâu xa tới thế kỷ chúng ta trong việc giải thích nỗi khó khăn, bối rối của con người, bị vò xé giữa những giá trị đối nghịch và phải đối đầu với sự phi lý, ở mỗi "bước ngoặt của lịch sử". Dưới chế độ Xô-viết, số phận của thành phố đã là nguồn cảm hứng cho biết bao đề tài, nhưng chẳng mấy được xuất bản, trưng bầy hoặc trình diễn. Sự trở lại với cái tên của nó có thể sẽ tạo niềm hứng khởi cho những công trình văn học nhằm cảm thông, và chuyển hóa nỗi kinh hoàng gây ra bởi chế độ độc tài Stalin.
Trong Chuyện Nghề, Nguyễn Tuân sau khi ca ngợi những trang viết của Nguyễn Huy Tưởng, trong Sống Mãi Với Thủ Đô, ông đã phàn nàn "chúng ta có quá ít những trang sách viết về Hà-nội". Chúng ta ở đây phải được hiểu, những nhà văn hiện thực xã hội chủ nghĩa. Cuộc chiến đấu của thành phố trong thời gian chiến tranh, trong một trận đánh được coi như "Điện Biên Phủ trên không" có thể là niềm tự hào, không phải của riêng những người Hà-nội, nhưng cái cảnh "tôi nhét điếu thuốc lá vào mồm tên giặc lái" mà Nguyễn Tuân tả trong Hà-nội ta đánh Mỹ giỏi chỉ có thể được "giải trừ" bằng những tâm trạng, thí dụ như của một người dân bên hồ Trúc Bạch, bao nhiêu năm sau, khi ôm hôn tên giặc lái mà ông đã từng nhào xuống hồ để cứu thoát: "Tôi không hiểu tại sao tôi làm vậy, lúc đó, và bây giờ, khi gặp lại ông, tôi đã hiểu ra rồi".
Theo một nghĩa nào đó, Petersburg giống như những thành phố lớn khác. Xuyên qua lịch sử văn hóa Tây-phương, thành phố đứng sừng sững, như để chứng thực nỗi hoang mang của con người, về mối liên hệ giữa nó và cái thế giới do nó tạo dựng nên: Babylon, Babel, Rome, Sodom, New Jerusalem đã đem đến cho trí tưởng tượng của những người Thiên chúa giáo, những hình ảnh về quyền lực và sự ung thối, sa đọa, thiên đàng và địa ngục. Sự hủy diệt của những thành phố thường làm cho con người khiếp đảm.
Nhưng Paris của Baudelaire, Prague của Kafka... là những thành phố không thực, những thành phố của trí tưởng, những chuyển hóa mang tính thấu thị của chuyện thường ngày. Trái lại, vẻ siêu thực của Petersburg đập ngay vào mắt du khách, như Hầu tước Custine: Một cái gì không thể nào diễn tả trọn vẹn bằng lời... Khu đất thấp của thành phố với những tòa nhà chạy dọc theo hai bờ sông Neva hình như lơ lửng giữa trời và biển, và du khách có lúc đã mong đợi nhìn thấy nó nhạt nhòa vào một cõi trống không... Có thể vậy chăng, đây là thủ đô của một Đế Quốc rộng lớn, một dúm đất chấp chới trên mặt nước, như bọt bèo bị cuốn theo cơn lũ; những điểm đen nhỏ nhoi, lộn xộn, thật khó mà nhận ra giữa mầu trắng của trời và của nước? Hay đây chỉ là một ảo tưởng thị giác? Đó là những cảm nhận của ông, vào một trong những đêm trắng của mùa hè phương Bắc, năm 1939, khi đứng trước "sự bí mật không thể hiểu được": sự hiện hữu của một thành phố như để thách đố trật tự đạo đức và vật lý của sự vật. Ý nghĩa biểu tượng của một thủ đô nước Nga tại bờ cõi phía Tây đã khiến cho Peter Đại Đế chọn lựa một trong những khung cảnh không một chút hứa hẹn mà còn là mồi ngon của ngoại xâm: Ông đã muốn thành phố mọc lên từ vùng đất hoang vu sũng nước trước mặt ông, như thành quả của một cố gắng nhằm biến đổi xứ sở thành một quốc gia hiện đại, Âu hóa. Trong một túp lều ở miệng Vịnh Phần-lan, là ý nguyện của một con người chống lại sức mạnh của thiên nhiên, kinh nghiệm lịch sử, và những hoài vọng của cả một quốc gia. Thành phố đã được dựng lên không phải vì dân chúng mà là để chống lại họ. Nếu Moscow là biểu tượng của truyền thống quốc gia, tôn giáo, thủ đô mà người dân Nga hằng gắn bó, Petersburg vốn được người dân Nga nhìn như một Phản-Ky tô, Antichrist. Nỗi nôn nóng hoàn thành (thành phố đã được coi là tân thủ đô của Nga, 14 năm sau khi ngôi nhà thứ nhất được xây dựng, vào năm 1703), đã lấy đi không biết bao nhiêu mạng con người. Hàng chục ngàn công nhân chết vì đói, bệnh và kiệt sức trong những công việc làm nền, đóng móng, nhằm chống lại nước, trên đó, thành phố đã mọc lên.
Được thiết kế bởi những kiến trúc sư Tây-phương, (một trong số họ bị Nga hoàng ra lệnh đánh chết), thành phố ngày một đẹp thêm cùng những triều đại kế tiếp. Kiến trúc sư Ý, Rastrelli, đã đem đến cho nó dáng dấp Baroque, và sau đó, dưới thời nữ hoàng Catherine, là những công viên, hệ thống kênh đào với những tòa nhà mang vẻ đẹp Tân-cổ điển. Custine viết, thành phố đã đón chào ông bằng dáng dấp cao sang, đường bệ, và đây là một trong những kỳ quan của thế giới. Nhưng du khách chỉ cần đi hết đại lộ Nevsky, nối liền trung tâm thành phố với khu ngoại vi, họ sẽ nhìn thấy những khu dân cư nghèo nàn, dơ dáy của một Nga-xô khác. Quá xa nữa là hướng đi của những chuyến xe thư, về những vùng Siberia, Kamchatka, Sa Mạc Muối (the Salt Desert), Bắc Băng Dương (the Glacial Sea).
Custine nhận xét, trong thành phố đó, một thành phố không một gốc rễ với đất đai, lịch sử, luôn luôn bị đe dọa bởi thiên tai, hoặc sự trả thù của con người, "tình trạng vây hãm" là chuyện bình thường của nó. Kỷ luật nhà binh đè nặng lên người dân là một "sự êm ả ép buộc, một trật tự bề ngoài... khủng khiếp, đáng sợ hơn cả tình trạng vô chính phủ"... "Bạn nghĩ coi, những gì tôi nhìn thấy lớn lao quá nên không thực, đây là một giấc mơ của một gã khổng lồ tương tư, được kể lại bởi một tên thi sĩ khùng." Và đây là cảm tưởng đầu tiên của du khách khi giáp mặt thành phố: một dàn dựng tuyệt vời, "chỉ để làm sân khấu cho một bi kịch thực, khủng khiếp."
Thành phố đã từng chứng kiến những bi kịch như vậy. Năm 1824, nó trải qua một trận lũ lụt tàn bạo. Ngày 14 tháng Mười, năm sau, một nhóm sĩ quan làm cách mạng đã làm mồi cho pháo binh tại công trường Senate, nơi có bức tượng khổng lồ Peter Đại Đế mà nữ hoàng Catherine đã đặt nhà điêu khắc Pháp, Falconet, hoàn thành.
Đây là một trong những "quái vật" của Petersburg. Bức tượng kỵ sĩ đồng đứng trên một cái bệ đá nặng trên 15 ngàn tấn, hàng ngàn người đã mất 3 năm di chuyển nó từ một nơi cách xa thành phố 12 dặm. Đám sĩ quan nổi loạn tin tưởng khi bắt buộc nhà vua phải chia sẻ quyền lực, họ có thể làm cho Peter từ bỏ ý định Âu hóa và để ý đến những vấn đề ở trong nước. Biến cố này đã được Puskhin ghi lại trong trường thi Kỵ sĩ Đồng, 1833. Mở đầu là một ngợi ca vì vua và thủ đô của ông, bài thơ đột nhiên chuyển giọng, kể lại thảm kịch của một viên chức nghèo, Yevgeny, đã mất những người thân yêu trong trận lụt 1824. Như phát khùng vì nỗi nhớ thương, anh nắm chặt tay chỉ về phía bức tượng ông vua, người đã xây dựng thành phố trên mặt nước rồi bỏ chạy, bị dượt đuổi bởi chính "thần tượng" là mình! Cuộc dượt đuổi cứ tiếp tục hằng đêm, và tiếng vó ngựa khủng khiếp vang rền khắp những con phố hoang vắng. Khi anh tự hỏi, phải chăng anh đang mơ, giấc mơ kinh hoàng là trận lũ lụt tàn bạo, thi sĩ ngắt lời nhân vật của mình: Phải chăng đời sống chỉ là một giấc mơ rỗng tuếch, một màn kịch tiếu lâm, được trình diễn với phí tổn của trời và đất?
Theo một nghĩa nào đó, Hà-nội và Petersburg có chung một (hay nhiều?) kẻ thù: Xuyên qua lịch sử của Hà-nội, kẻ thù của nó là những cơn lũ lụt khủng khiếp của sông Hồng. Vì đọc cũng đã lâu, lại không có văn bản trong tay, nhưng hình như trong Hà-nội trong mắt tôi của Phạm Xuân Đài, khi tác giả ngồi trên máy bay nhìn xuống, dòng sông đẫm mầu phù sa cho ông cảm tưởng đây là một khai mở, ouverture, của một bản giao hưởng. Khi viết như vậy, không hiểu tác giả có liên tưởng tới những đoạn nhạc hùng tráng của một trường ca sông Lô, sông Hồng thời kháng chiến chống Pháp, hoặc bản trường ca xuyên suốt lịch sử trong cuộc chiến chống lại thiên nhiên và con người. Nhưng hy vọng chăng, đây là một khai mở cho một trường ca, khởi từ tâm trạng "lúc đó, tôi không hiểu tại sao, nhưng bây giờ, tôi đã hiểu ra rồi".
Phạm Xuân Đài có trong ông tất cả những huyền thoại về Hà-nội, và ông rất tự hào về nó. Hà-nội trong mắt tôi có thể coi như một nơi chốn, một không gian-thời gian, khi huyền thoại bắt tay thực tại. Cuộc hội ngộ không đến nỗi ngỡ ngàng, và cũng thật cảm động. Tôi nghĩ nếu Nguyễn Tuân còn sống, có thể ông cũng có phần nào tự hào: Trong Hà-nội... có chút thăng hoa của phở, của thể văn tùy bút.
Tatyana Tolstaya, trong một bài người viết tình cờ đọc đã lâu, khi còn ở Trại Cấm Thái Lan, và chỉ được đọc qua bản dịch, Những Thời Ăn Thịt Người (đăng trên tờ Thế Kỷ 21), cho rằng, chủ nghĩa Cộng-sản không phải từ trên trời rớt xuống, cái tư duy chuyên chế không phải do Xô-viết bịa đặt ra, mà đã nhô lên từ những tầng sâu hoang vắng của lịch sử Nga. Người dân Nga, dưới thời Ivan Bạo Chúa, đã từng bảo nhau, người Nga không ăn, mà ăn thịt lẫn nhau. Chính cái phần Á-châu man rợ đó đã được đưa lên làm giai cấp nồng cốt xây dựng xã hội chủ nghĩa. Bà khẳng định, nếu không có sự yểm trợ của nhân dân Nga, chế độ Stalin không thể sống dai như thế. Puskhin đã từng van vái: Lạy Trời đừng bao giờ phải chứng kiến một cuộc cách mạng Nga!
Bây giờ đọc lại Phan Khôi, liệu chúng ta có thể hiểu ông nhiều hơn, khi không giản lược câu chuyện ông kể, về Cỏ Cụ Hồ, chỉ là một cách xả xú báp của một vị thâm nho, trước chế độ độc tài, theo suy nghĩ châm biếm, hài hước là khí giới của kẻ yếu thế. Trong Nhân Văn Giai Phẩm, ông kể chuyện Điện Biên, và sự xuất hiện một thứ cỏ tại vùng này. Cỏ nở hoa, "không thể ngửi được". Người Miền Bắc gọi là hoa cứt lợn (heo). Nhưng người dân Điện Biên vì thấy cỏ xuất hiện cùng lúc với quân đội Cộng Sản, nên gọi là Cỏ Cụ Hồ.
Petersburg là một thai đố từ chối mọi soi sáng, từ bất cứ một chủ thuyết tiến bộ, cho dù phổ cập, thuần lý tới đâu. Những chủ thuyết trấn ngự thế kỷ 19. Chính vì vậy, nó hớp hồn hai trong số những nhà văn thuộc loại đả phá nhất thời đại, Dostoevsky và Alexander Herzen.
Theo Herzen, không có cách chi để giải mã sự hiện hữu kỳ bí của một thành phố được xây dựng trên một phần tử, phần tử này chắc chắn một ngày nào sẽ nuốt chửng nó. Ông là đứa con của Moscow, một thành phố bám rễ vào lịch sử, chẳng bao giờ phải âu lo hay thắc mắc về căn cước và những hoài vọng của nó. Petersburg, đứa con của một ông vua, người đã nhân danh văn minh để mà kìm kẹp xứ sở. Đây là niềm bí ẩn bi đát và cũng là đức hạnh của Petersburg: Không nơi nào hơn chốn này, để chìm đắm suy tư về tình trạng dở sống dở chết của con người hiện đại, bị vò xé vì phải trung thành với những lý tưởng không sao hòa nhập. Herzen tới để ôm lấy thành phố, "như thể tôi ngừng yêu Moscow, bởi vì nó không thể tạo nên thú đau thương, sự tra tấn, hành hạ".
"Thành phố trừu tượng nhất trên toàn thế giới", đó là lời Người Dưới Hầm của Dostoevsky. Thành phố không gốc rễ đã trở thành một miếng đất mầu mỡ nuôi dưỡng đám trí thức không gốc rễ, và Dostoevsky tin rằng ông là người đầu tiên cảm nhận được ý nghĩa này. Thành phố là nền cho rất nhiều truyện ngắn, tiểu thuyết của ông. Những nhân vật của ông, thường phải đối đầu với những cơn sốt mộng mị, ảo giác do cái không khí bệnh hoạn của vùng đất sũng nước, và họ cố tìm kiếm một cách vô vọng những lề luật mới cho hiện hữu đạo đức, xã hội, trong một thế giới mà những giá trị cũ không còn có thể áp dụng. Sống trong một tình trạng mê sảng cao độ như thế, họ bắt đầu thù ghét thành phố mà những mâu thuẫn kỳ cục như tấm gương phản chiếu phần âm u bên trong con người họ. Trong một buổi sáng đầy sương mù, nhân vật trong Đầu Xanh Tuổi Trẻ (A Raw Youth) bị săn đuổi bởi một giấc mơ kỳ lạ:
Nếu cái đám sương mù này bốc hơi rồi thoát đi về mãi trên cao, nếu cả thành phố hư ruỗng này bốc lên theo với nó, rồi tan thành mây, thành khói, còn lại chăng, chỉ là một vùng đất sũng nước vốn xưa kia của Phần-lan, và để tô điểm cho khung cảnh đó, là gã kỵ sĩ đồng trên con ngựa mệt nhoài, hắt ra những hơi thở nóng bỏng.
Những điều quái dị thấm đậm chất tiên tri: Bi kịch cách mạng Nga sẽ diễn ra trên đường phố Petersburg. Vào năm 1881, Nga Hoàng Alexander II bị bom khủng bố sát hại khi chiếc xe ngựa của ông chạy qua thành phố.(1) Ngày 22 tháng Giêng 1905, trong lúc cả nước Nga đang mấp mé bên bờ cách mạng, một cuộc biểu tình của công nhân nổ ra tại Cung Điện Mùa Đông. Binh sĩ đã nổ súng vào họ.
Phong trào Tượng Trưng, thịnh hành giữa những năm cách mạng 1905 và 1917, bị chế ngự bởi tinh thần Slavic, và giọng khải huyền. Thi sĩ A. Blok, một đứa con của Petersburg, trông chờ sự hủy diệt thành phố của ông và văn hóa ngoại lai của nó, như một sự tẩy uế quyết liệt, một sự trừng phạt do sức mạnh quần chúng đòi hỏi. Trong cuốn tiểu thuyết siêu thực của Andrei Bely, Petersburg, tiếng tích tắc của trái bom khủng bố bao trùm lên mọi động tác của cuốn truyện, và thành phố là một "chiều thứ tư" không hiện diện trên bất cứ một bản đồ nào.
Thực tại vượt sức tưởng tượng thi ca. Chỉ vài tháng sau khi cuốn tiểu thuyết của Bely xuất hiện, Petersburg được đặt tên lại là Petrograd, để thỏa mãn tình cảm ái quốc, khi Đệ Nhất Thế Chiến bùng nổ. Hai năm sau, nó hết còn là thủ đô Nga. Thành phố đổi tên một lần nữa, cùng với cái chết của Lênin vào năm 1924. Việc đổi tên lần thứ nhì này được tầng lớp trí thức coi như là một toan tính nhằm xóa mọi hồi tưởng về sự độc lập mang tính truyền thống của họ. Stalin thi hành mọi biện pháp để hoàn tất, biến thành phố thành mục tiêu khủng bố số một của ông. Những người sống sót sau những đợt xử bắn, trục xuất hàng loạt của những năm 1930, trở thành nạn nhân của Đức Quốc Xã, trong cuộc vây hãm thành phố, dài nhất trong lịch sử hiện đại. Khi thành phố được giải tỏa 900 ngày sau, 3 phần 4 dân số bị huỷ diệt. Thành phố gần như không thể hồi sinh, một phần là do chính sách tiếp tục trả thù của Stalin, và do sự phản động của Đảng bộ địa phương. Nhưng vào những năm 1960, thành phố nở rộ, phần lớn là trong tình trạng dưới hầm, những hoạt động văn chương, nghệ thuật. Không giản dị chỉ là nuối tiếc, hoài nhớ, nhưng mà là tìm kiếm những cội rễ văn hóa, gần như biệt tăm, bởi chủ nghĩa Stalin. Cuộc tìm kiếm vẫn tiếp tục, cho tới nay, trong những cuộc tranh luận về ý nghĩa của quá khứ thành phố. Cố tìm ra một văn hóa thực của Petersburg, khác biệt với những giá trị chỉ dính dáng tới chế độ quân chủ, nhiều nhà trí thức thành phố hy vọng tái xây dựng một ý nghĩa cho sự liên tục lịch sử, đồng nhất quốc gia, ý hướng đạo đức.
Năm 1918, Blok xuất bản trường thi 12 Vệ Binh Đỏ, thô bạo và hung dữ, chỉ với một ước muốn trả thù tụi trưởng giả, đi giữa cơn bão tuyết trên đường phố Petrograd, cướp và giết, được dẫn dắt bởi một sức mạnh vô hình. Ở đoạn thơ cuối, bóng dáng Jesus Christ xuất hiện trong bộ đồ trắng dẫn đầu đám người hung bạo. Blok coi việc Bôn-sê-vích nắm quyền, được "chúc phúc" bởi Chúa. Nhưng ông là người đầu tiên gục ngã vì thất vọng, chết năm 1921, vì "cơn suyễn tinh thần", chữ của Andrei Bely. Cùng trong tháng, thi sĩ Nicolai Gumilev bị bắt về tội âm mưu chống Xô-viết, bị xử bắn cùng với 6 người khác, (bây giờ người ta được biết, hồ sơ vụ án hoàn toàn nguỵ tạo). Trong thập kỷ hậu-cách mạng tiếp theo, thành phố, đã từng hân hoan đón chào sự ra đời của chủ nghĩa hiện đại Nga, lúc này chứng kiến một cái chết kéo dài vì nghẹt thở, của nó. Mayakovsky, nhà thơ, nhà tiền phong, người cổ võ lớn lao nhất cho chế độ mới, tự sát bằng súng vào năm 1930. Năm trước đó, Bakhtin bị bắt, trong một toan tính của cảnh sát nhằm huỷ diệt các nhóm văn nghệ, triết học, tôn giáo dưới hầm tại Petrograd. Nhà văn trẻ Konstantin Vaginov, thuộc nhóm Bakhtin, kết luận: Đây là lúc để hạ màn. Cuộc trình diễn như vậy là xong. Trên sàn diễn chỉ còn sự lặng câm, ngu ngơ, và hoang vắng. Đâu là tình yêu đã được hứa hẹn, chủ nghĩa anh hùng, nghệ thuật đất hứa?
Đây là tiếng nói của tinh thần Petersburg. Vaginov là một thành viên, trong dòng thử nghiệm văn xuôi, tác phẩm của ông đã xuất hiện vào đầu những năm 1920. Hầu như cả đám họ đều biết và học hỏi lẫn nhau. Có người đã từng là trại viên "Căn nhà Nghệ thuật" do Gorky thành lập để giúp cho họ khỏi chết đói những năm đầu chế độ. Đề tài chủ yếu của họ là St. Petersburg - Leningrad. Họ tự đo lường, trước những bậc thầy của quá khứ. Trong số đó có cả "the Serapion Brothers", một nhóm được thành lập vào năm 1921, một thành viên là nhà châm biếm Mikhail Zoshchenko, người thừa hưởng được văn phong của Gogol và của Dostoevsky khi còn trẻ, đã dám mô tả con người mới Xô-viết, không phải là một anh hùng vô sản theo như huyền thoại học của nhà nước, mà chỉ là một gã phàm tục, vô học, ngang ngạnh, và tham lam. Những người thuộc dòng văn thơ xuôi mới này không cho phép những viễn ảnh hồng của tương lai che mờ nhận thức đạo đức của hiện tại. Yevgeny Zamyatin, trong một bài viết Tôi Sợ in trên một tờ báo ở Petrograd vào năm 1921, đã tuyên bố, cái chủ nghĩa hình thức bợ đỡ, xu nịnh này chỉ đẩy nhà văn tới sự im lặng. Văn chương thực, chỉ hiện hữu, khi không do mấy anh thư ký ăn lương nhà nước, sản xuất theo kiểu kỹ nghệ nhà máy, mà do những người điên, những thần bí gia, những kẻ dị giáo, những mơ mộng gia, những người nổi loạn, và những người bi quan yếm thế. Sự phản đối của ông thật đáng kể, vì thế giá cách mạng của ông, người đã từng là đảng viên Bôn-sê-vích. Trong cùng năm ông hoàn thành tác phẩm chống-không tưởng, Chúng Tôi, cuốn này đã gợi hứng cho 1984 của Orwell. Tác phẩm chỉ lưu truyền qua dạng bản thảo, và khi nó xuất hiện trên một đặc san lưu vong, tác giả không được phép in ấn gì nữa, tại Nga. Năm 1931, ông viết thư cho Stalin xin phép xuất ngoại, "như vậy tôi có thể trở về quê hương, sớm chừng nào tốt chừng đó, cho văn chương, để phục vụ những tư tưởng lớn lao, mà không phải bò trước những người nhỏ bé". Kỳ diệu thay, đơn của ông được chấp thuận.
Pho tượng Peter, và trận lụt khủng khiếp thường được sử dụng như những ẩn dụ trong văn xuôi những năm 1920. Trận lụt trước (1824) và trận lụt 100 năm sau đó, trùng với việc thành phố đổi tên cùng với cái chết của Lênin (1924), Volkov, tác giả cuốn sách đã nói ở trên đưa ra nhận xét, từ những mốc thời gian, biến cố lập lại như vậy, thành phố đã được miêu tả như một con thuyền của những người chết, lang thang vất vưởng giữa hai bờ tử sinh.
Herzen đưa ra nhận xét, đại khái, Petersburg tẩm vào người dân của nó một "chất độc", gây cơn sốt thường trực, về thể chất cũng như về tinh thần. Một hiện hữu nóng bỏng, và cái giá của nó là một cái chết trẻ. Nhiều nhà văn của Leningrad đã trả giá như vậy. Người thì chết trong tù. Tình trạng bỏ chạy ra nước ngoài không rầm rộ nhưng âm ỉ kéo dài suốt những năm 20. Những người ở lại đã phải đối diện với sự chọn lựa giữa sự nghẹt thở về tinh thần hay huỷ diệt thân xác. Nhưng một số trong họ vẫn cố giữ nhân cách, sự trung thực, và cố ghi lại thực tại quái đản là "Cuộc Khủng Bố của Stalin". Chẳng có chi là trùng hợp, những người nổi tiếng nhất trong số họ đều có gốc rễ văn hóa những năm tiền-cách mạng tại Petersburg. Nữ thi sĩ Akhmatova, và nhà soạn nhạc Shostakovich, đã biến đổi thành phố thành một biểu tượng cho số mệnh bi đát, và hy vọng hồi sinh của nước Nga.
Shostakovich vào Viện Âm Nhạc Petrograd năm 1919 khi ông 13 tuổi, và là một trong những học trò xuất sắc nhất về soạn nhạc của trường Petersburg. Ông cũng đam mê không khí văn chương của thành phố. Vở opera đầu tiên của ông, Cái Mũi, dựa theo một chuyện kể phi lý của Gogol về cái mũi của một nhân viên, rời chủ của nó để sống một cuộc sống tự lập, cuối cùng bị cảnh sát bắt. Vở opera có thể được thưởng thức như là một câu chuyện châm biếm về quyền lực và nỗi sợ do nó gây nên. Vào năm 1936, Stalin đi dự một buổi trình diễn vở opera của ông Phu nhân Macbeth ở Quận Mtsensk, và tỏ vẻ bực bội, dấu hiệu mở đầu chiến dịch dữ dội của Đảng nhằm chống lại mọi hình thức nghệ thuật đi ra ngoài dòng hiện thực xã hội chủ nghĩa. Leningrad trở thành mục tiêu đầu tiên của "Đại Khủng Bố". Sau vụ ám sát Kirov, trùm đảng bộ Leningrad (1934), có thể là do Stalin, nhằm có cớ cho cuộc thanh trừng những phần tử đối lập trong thành phố, những cuộc bắt bớ hàng loạt đã diễn ra. Shostakovich đã khéo léo lắm mới thoát khỏi, và vẫn giữ được sự trung thực. Trong một cuộc phỏng vấn, ông tuyên bố Bản Giao Hưởng Thứ Năm, được trình diễn lần đầu, tháng Mười Một 1937, là về "một người đàn ông với những cảm nghĩ của anh ta", nhưng những khán thính giả cắt nghĩa, đây là một tác phẩm về Khủng Bố. Tất cả đều biết rằng, chỉ lát nữa sau khi ra khỏi rạp, một vài người trong số họ sẽ bị ném vào tù, hay bị xử tử. Bản Giao Hưởng Thứ Bẩy, viết để tặng những người dân thành phố bị quân đội Đức vây hãm, được trình diễn lần thứ nhất tại đây vào tháng Tám 1942, trước một đám thính giả, lả vì đói và lạnh. Được truyền thanh khắp nước Nga và được Stalin khôn khéo sử dụng, như một bằng chứng về tinh thần yêu nước của người dân Leningrad, nhưng tác giả của nó đã tâm sự với một số bạn thân, bản giao hưởng không chỉ là một cáo trạng đối với chủ nghĩa phát xít, mà đối với mọi chủ nghĩa đàn áp. Âm nhạc của ông đã kết tinh hình ảnh mới của thành phố, như là một nạn nhân. Đây là điều Akhmatova đã làm, trong những vần thơ dưới hầm của bà.
Akhmatova đã nhìn Petersburg như Nữ Thần Thi Ca của bà, "được yêu bởi tình yêu cay đắng". Bà đã nhìn ra sự huỷ diệt văn hóa của nó sẽ dẫn tới sự man rợ. Tuy nhiên bà không chấp nhận chạy ra nước ngoài sau cách mạng, và đã có những lời lẽ thật cứng rắn đối với những người ra đi: "Tôi không về phía những người đã rời bỏ đất này/ để cho kẻ thù tàn phá/ Tôi không thèm để ý đến những lời ca ngợi giả dối nham nhúa của họ/ những bài ca của tôi không phải để cho họ". Nhưng không như Mayakovsky, bà cũng chẳng hề ngợi ca những người cầm quyền mới của nước Nga. Những Năm của Chúa, Anno Domini, tập thơ của thời kỳ 1917-1921, ngoài những bài nói về những biến cố lớn lao, còn đề cập tới những tình cảm riêng tư - thảm kịch tình yêu, ghen tuông, và phản bội - được phô bầy trong khi cả thành phố xôn xao vì những tin đồn ghê rợn, và thần chết có thể gõ cửa từng nhà bất cứ lúc nào. Bị hằn học chỉ trích là thiếu niềm "lạc quan xã hội chủ nghĩa", Akhmatova đã rút lui vào im lặng trong nhiều năm. Theo đám phê bình gia độc miệng, bà sinh ra quá trễ, và chưa (đủ) chết sớm. Nhưng bà cảm nhận, thời của bà chưa tới. Và bài thơ đầu của "thời của bà" gửi cho Những Công Dân Bạn Bè Của Tôi đã tận cùng bằng những dòng: Một Thời Gian Khác đang tới gần/ trận gió của cái chết làm lạnh tim/ nhưng thành phố thiêng liêng của Peter/ sẽ là đài tưởng niệm không mong muốn của chúng ta. Mười năm sau đó, bà phá vỡ sự im lặng bằng những dòng Kinh Cầu Hồn. Đây là một tác phẩm nghệ thuật lớn lao vĩ đại nhất về Khủng Bố. Đề tài của nó là những năm tháng Leningrad "treo như một vật thừa thãi quanh nhà tù của nó", bên ngoài những bức tường nhà tù, đàn bà xếp hàng dài mỗi ngày, hy vọng gửi đồ hoặc nhận được tin về số phận của thân nhân. Akhmatova đã từng đứng đó, trong 17 tháng trời khi con trai của bà bị bắt giữ và sau bị đầy đi trại cưỡng bức lao động. Như một thi sĩ, qua cái miệng bị tra tấn của người đó, hàng trăm triệu con người than khóc, bà đã ghi nhận chuyện từng ngày của những năm tháng khủng khiếp. Thật nguy hiểm khi viết ra bài thơ. Trên 5 năm trời, bài thơ được ghi vội vào những mẩu giấy nhỏ, được ghi vào ký ức của những người bạn tin cẩn, rồi đốt bỏ những mẩu giấy. Trở thành mục tiêu chiến dịch khủng bố mang tính ý thức hệ, do Stalin đề xướng vào năm 1946, bà bị đối xử tàn tệ đến khi Stalin chết.
Như tất cả những tác phẩm lớn của văn hóa Petersburg, Kinh Cầu (2) là sáng tạo của một nghệ sĩ mà sự đồng nhất với thành phố là tổng hợp của rất nhiều tình cảm hỗn độn. Joseph Brodsky, một đứa con khác của thành phố, đã có lần đưa ra nhận xét, Petersburg đẻ ra một nền văn chương được đánh dấu bởi sự "âu lo, như thể nó được viết ra từ mép bờ trái đất. Và nếu có thể đưa ra một quan niệm chung, một âm điệu nào đó, thì đó là sự vong thân".
Tôi trở lại thành phố của tôi, thân quen với những dòng lệ,
với cơn đau thịt thừa trong cổ họng thuở ấu thơ, và chứng chướng tĩnh mạch
Bạn đã trở về đây - vậy thì hãy nuốt
dầu đèn phố Leningrad
Hãy nhận ra bây giờ ngày tháng Chạp mù sương...
Petersburg, tôi chưa muốn chết
Tôi có số điện thoại của bạn ở trong đầu
Petersburg, tôi vẫn có những địa chỉ, tại đó, tôi sẽ tìm ra tiếng nói của những người đã chết...
(Osip Mandelstam, Leningrad)
Và Kinh Cầu của Akhmatova tận cùng bằng những dòng:
...nơi tôi kéo lê 300 giờ đồng hồ
sắp hàng trước song sắt.
Và từ trong hốc mắt bất động của tôi, có thể tuyết đông, như những giọt lệ,
từ từ nhỏ xuống,
một con chim bồ câu nhà tù gù gù đâu đó, gù gù,
gù gù
trong khi những con tầu từ từ xuôi dòng Neva.
Như một người ghi lại Cuộc Khủng Bố, sự quan trọng của Akhmatova không phải chỉ vì bà đã có khả năng tạo nên lòng xót thương đối với những nạn nhân, nhưng, bằng sức mạnh mang chất Dostoevsky, bà đã sử dụng thực tại cụ thể của thành phố để chuyên chở sự dung tục của cái ác (the banality of evil) (3), một điều mà những bạn đường của bà cố gắng chứng thực, nhân danh những thành quả lịch sử lớn lao. Trong một thành phố, nơi người chết mỉm cười, sung sướng vì sau cùng đã được bình an, nơi người sống 'hơi thở thua người chết, hình hài thân xác thua đám sương mù trên thành phố....'
Nguyễn Quốc Trụ
Chú thích:
(1) Anh ruột của Lênin bị tử hình sau đó, một trong những nguyên nhân đưa đến chủ trương bạo động của Lênin.
(2) Kinh Cầu được thai nghén khi nhà thơ sắp hàng trước nhà tù, chờ thăm nuôi con trai... một người đàn bà đứng sau, chưa từng quen biết, ghé sát tai thì thầm: Liệu nổi không? Thi sĩ gật đầu: Được!
(3) Chữ của Annah Arendt, trong Eichmann ở Jerusalem: Một báo cáo về Sự Dung Tục của Cái Ác (May 19, 1963). Tác giả khi đó là phóng viên tờ The New Yorker, tường thuật vụ án xử Eichmann cho báo này. Bà tin rằng nhân vật Đức Quốc Xã Eichmann bị xét đoán sai lầm (misjudged) ở Jerusalem, và trích dẫn một câu nói của ông ta: "Bản thân tôi không thù hận gì người Do-thái." Có cảm tình với Eichmann, bà than thở: "Than ôi, chẳng ai tin ông ta!" Liệu có người nào bị chê trách vì đã nhíu mày khi nghe một lời giả dụ, rằng Eichmann yêu thương người Do-thái? Vào cuối cuộc chiến, ông ta kêu lên: "Tôi sẽ cười lớn khi nhẩy xuống mồ, vì ý nghĩ, rằng tôi đã giết năm triệu dân Do-thái. Thật quá vui và hài lòng vì điều này". [Theo bài điểm cuốn sách của Arendt, của Michael A. Musmanno, đăng lại trên The NY Times Book Review nhân báo này ra số kỷ niệm 100 năm (Oct 6, 1996).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét